Chiều buồn, mưa rơi tầm tã, hai cha con ngồi trong phòng trọ nhìn trời mưa mà lòng xốn xang vì lo lắng cho người thân ở quê nhà. Từ Thành phố Vinh chạy về Quế Phong, rồi lại còn ngược về bản phải mất ba, bốn tiếng đồng hồ, đường về nhà vốn đã xa và hiểm trở hôm nay lại càng xa hơn nữa vì những trận mưa không dứt. Mưa luôn khiến người ta hay nghĩ ngợi, nghĩ về quá khứ bất hạnh, nghĩ về một tương lai mờ mịt: “khi mới biết bệnh em đã muốn chết đi, để không làm khổ vợ con… Nhưng con em còn quá nhỏ… em muốn sống để ít ra chúng còn có thể nhìn thấy mặt ba nó…”. Hai mắt anh đỏ quạch nhưng chẳng giọt nước mắt nào có thể rơi ra, bởi đau khổ đã trở thành một phần của cuộc đời anh.
Hai cha con anh là người dân tộc Thái quê ở Quế Phong nhưng nơi tạm trú thường xuyên lại là bệnh viện. Đã nghèo mà cái eo cứ đeo bám quanh năm suốt tháng. Căn bệnh suy thận giai đoạn cuối giống như bản án chung thân đối với người cha vì như các bệnh nhân thận thường nói, “ngày ra viện là ngày trở về với lòng đất mẹ”. Người cha chạy thận được ba năm thì anh cũng phát hiện mình bị giống cha. Hai người đàn ông trụ cột của gia đình giờ như kẻ vô dụng phải rời xa buôn làng xuống phố để duy trì sự sống từng ngày. Anh xót xa khi phải bỏ lại người mẹ già chỉ còn lại một con mắt và người vợ lam lũ bươn chải trên bản để thay anh chăm lo cho 2 đứa con thơ. Hai cha con đi chạy thận cũng chẳng có gì ngoài mấy bộ áo đã cũ. Chạy vạy đủ đường mới có tiền mướn phòng, lấy chi mà ăn. Bà con chạy thận quanh đó thấy thương nên người cho nắm gạo, kẻ chia chút thức ăn nên hai cha con sống qua ngày.
Ấy vậy mà cái khổ chẳng chịu buông tha. Đã không về được quê thăm người thân, đêm ấy cha của anh lại bị đứt mạnh máu não, rơi vào tình trạng hôn mê. Anh vội đưa cha đi cấp cứu. Đêm ấy sao dài đằng đẵng, nhìn cha tím tái, máy móc với những dây rợ chằng chịt khắp người, anh muốn khóc thật to mà không thể làm được. Lòng đau như cắt, ruột gan như thể sắp cháy thành than nhưng anh vẫn cố giữ bình tĩnh, anh phải mạnh mẽ để tiếp thêm sức mạnh cho cha. Giữa đêm khuya vắng lặng, tiếng gió thổi ùa vào hành lang bệnh viện như thể tiếng bước chân của thần chết đang tiến gần.
Đã mấy ngày rồi, cha anh chẳng có chút gì gọi là còn sự sống. Các bác sĩ khuyên anh đưa cha về vì không còn hy vọng cứu sống. Nhưng trời mưa như trút thế này làm sao đưa được cha về bản? Thôi thì đành chờ trời tạnh ráo. Anh ngồi bên cha lo lắng, tâm hồn bộn bề chẳng thiết ăn uống, đêm trông cha không ngủ nên mắt đỏ hoe, sưng húp. Lấy gì chữa bệnh cho cha đây. Nhìn cha lòng quặn đau, nhìn những hóa đơn tiền thuốc lại thêm hoảng loạn. Gia đình túng quẫn, anh chị em chẳng ai khá giả, biết trông vào ai bây giờ. Trong cơn túng quẫn của người rơi xuống đáy vực thẳm, một tia sáng bất chợt lóe lên. Anh móc túi lấy ra chiếc điện thoại cùi bắp gọi cho các sơ, xin các sơ cầu Chúa cho cha mình. Được tin, các sơ vội vã đến thăm, khuyên anh hãy tin và cầu khấn Chúa. Như vớ được cái phao giữa lòng đại dương mênh mông, anh tha thiết xin Chúa giúp cho cha anh vượt qua khỏi cơn nguy kịch này. Một ngày nữa trôi qua trong lo lắng nhưng đã pha chút niềm tin. Và phép màu đã xảy ra trong sự ngỡ ngàng của các bác sĩ và của chính anh. Đôi mắt của cha anh động đậy và bừng mở, ngơ ngác, ngỡ ngàng. Bốn mắt nhìn nhau vỡ òa trong niềm hạnh phúc khôn tả. “Đó là một phép lạ!” anh thốt lên trong niềm vui sướng và nhảy cẫng lên như một đứa bé lên ba.
Không phải chỉ là câu chuyện của riêng anh mà còn biết bao nhiêu mảnh đời khác trong xã hội cũng đã và đang ngóng chờ một phép màu như thế. Từng ngày từng giờ, trong cơn túng quẫn, giữa những khó khăn tư bề không lối thoát, họ khao khát mong chờ, trông đợi sẽ có một phép màu, một vị cứu tinh đến giải cứu họ.
Mùa Vọng, mùa đợi trông, mùa hy vọng, mùa nhắc nhở ta rằng: Thiên Chúa sẽ đến giải cứu con người. Khi Ngài đến, “Ngài sẽ lấy đức công minh mà xét xử những người nghèo khó, và lấy lòng chính trực mà bênh đỡ kẻ hiền lành trong xứ sở. Ngài sẽ dùng Lời như gậy đánh người áp chế, và sẽ dùng tiếng nói giết chết kẻ hung ác. Ngài lấy đức công bình làm dây thắt lưng, và lấy sự trung tín làm đai lưng.” Ngài sẽ thiết lập hòa bình trên trái đất. Bởi vì ngày đó, “thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương…Các dân sẽ khẩn cầu Ngài”. Vâng, Lời Kinh Thánh đã được ứng nghiệm nơi cuộc đời của anh. Nhận được “phép màu” từ nơi Chúa, anh đã trở nên người đi gieo niềm hy vọng :“Nhờ căn bệnh suy thận mà hai cha con em và nhiều bệnh nhân khác biết đến Chúa qua các sơ, em vui lắm vì thấy Chúa thương hai cha con em nhiều…” Chắc hẳn anh và toàn thể gia đình đã rất hạnh phúc, bởi cha anh đã được cứu khỏi nanh vuốt của tử thần. Hơn thế nữa, nhờ sự trợ giúp của các ân nhân, anh và cha anh đã có đủ tiền trang trải món nợ “khổng lồ” khi cha anh cấp cứu trong bệnh viện.
Chính trong hoàn cảnh éo le nhất, anh đã cảm nhận được tình thương của Đấng Tạo Hóa dành cho mình. Cuộc sống khắc nghiệt không còn cơ hội vùi dập anh xuống, nhưng làm cho anh trở nên mạnh mẽ và kiên cường, vì từ nay anh nhận ra có những người con của Chúa, có chính Chúa cùng đồng hành nâng đỡ anh. Nụ cười tỏa nắng luôn nở trên môi anh, bởi anh đã tìm thấy niềm vui đích thực của đời mình, với anh – được biết đến Chúa chính là phép màu tuyệt vời nhất, khi trong anh luôn mang tâm tình của màu tím chờ đợi, và hướng đến màu xanh hy vọng.
Mùa vọng – mùa mời gọi các tín hữu hãy sống và gieo niềm hy vọng bằng chính cuộc sống gắn bó với Chúa, và trổ sinh hoa trái là các việc bác ái. Mùa Vọng này tôi đã và đang làm gì để Chúa được biết đến? Hay để gieo niềm hy vọng nơi người khác? Tôi đã sống với tâm tình nào để đánh dấu cho sự khao khát mong chờ Chúa Giáng Sinh? Chúa cũng đang hy vọng nơi tôi.
Tin cùng chuyên mục:
ỦY BAN PHỤNG TỰ GIẢI THÍCH VỀ “LỄ CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI” NĂM 2024
Gặp gỡ ‘Luce’: Nhân vật biểu tượng hoạt hình của Vatican cho Năm Thánh 2025
Hiệp thông trong cộng đoàn: Xử lý cơn giận
Đức Thánh Cha Ban Hành Thông Điệp Thứ Tư, “Người Đã Yêu Thương Chúng Ta”