Người tu sĩ sống chứng tá trong thời đại  hôm nay

3111 lượt xem 6 Tháng 3, 2018

 

           Người tu sĩ sống chứng tá trong thời đại  hôm nay

   DẪN NHẬP

       Thế giới ngày nay đang rất cần đời sống chứng tá đích thực của người Ki tô giáo, vì con người ngày nay tin tưởng nơi các chứng nhân hơn là thầy dạy, tin vào kinh nghiệm hơn là sách vở, tin vào cuộc sống và hành động hơn là lý thuyết (x.Tông huấn Giáo hội Á Châu, số 42).

                   CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA XÃ HỘI NGÀY HÔM NAY

1.Chủ nghĩa hưởng thụ.

        Trên thế giới hôm nay, một mối nguy hiểm lớn, cũng đã thấm nhiễm vào trong cuộc sống của con người là chủ nghĩa hưởng thụ, sự tự mãn tham lam, chạy theo những điều phù phiếm với một lương tâm chai lỳ. Khi đời sống của con người bị trói chặt trong những lợi ích vật chất, trong những đam mê trần thế, với lối sống hưởng thụ cho riêng mình, thì trái tim họ cũng không còn chỗ cho người khác, họ cũng không còn nghe thấy những tiếng rên la của người nghèo khổ[1].

         Nhìn vào xã hội chúng ta đang sống ngày hôm nay, chúng ta thấy xã hội đã bị ảnh hưởng rất nhiều bởi quan niệm sống là hưởng thụ. Quan niệm này bắt nguồn từ chủ nghĩa duy vật chất, thường có nơi những người không tin hay chưa tin vào Thiên Chúa và sự sống đời sau. Nhiều người trong số họ họ chủ trương vũ trụ này không có nguồn gốc siêu việt, mà chỉ là kết quả của những biến chuyển của vật chất có từ muôn thuở. Chủ nghĩa duy vật chất cho rằng giá trị cao nhất của đời sống con người là lạc thú và vật chất, từ đó dẫn họ đến quan niệm sống là phải hưởng thụ.

         Tuy nhiên, “hưởng thụ”có thể được hiểu theo hai chiều hướng: chiều hướng tích cực là nói đến việc con người hưởng dùng một cách chính đáng những của cải vật chất hay thưởng thức những sản phẩm là kết quả của lao động của bàn tay và khối óc: Thưởng thức các món ăn, thưởng thức nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc, hội họa…, một cách đơn giản như chiêm ngắm, thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên….Những người này coi của cải vật chất chỉ như phương tiện để phục vụ đời sống con người và của cải vật chất đối với họ thực sự là phương tiện tốt để đáp ứng các nhu cầu của đời sống con người. Hơn thế nữa, của cải vật chất đối với họ còn là phương tiện tốt để thực thi các việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ…Còn hưởng thụ hiểu theo chiều hướng tiêu cực là nói đến việc con người quá ưa chuộng một nếp sống tiện nghi dễ dãi và buông thả, chiều theo các dục vọng bản năng, mong thỏa mãn các nhu cầu của thân xác, cùng đích của họ là của cải vật chất, là hưởng thụ, là hạnh phúc giả tạo ở đời này… Những người sống theo chiều hướng tiêu cực này sẽ tìm mọi phương cách để có của cải vật chất, cho dù là những phương cách lỗi luật công bằng, vi phạm luân thường đạo lý.

        Đời sống của những người sống hưởng thụ theo hướng tiêu cực này quả thật bấp bênh và lầm lạc. Những người này họ cũng khát khao và mong đi tìm hạnh phúc, nhưng lại chỉ có được thứ hạnh phúc nhất thời, giả tạo, mong manh, dẫn đến sự nhàm chán, tuyệt vọng. Họ như bị quay cuồng giữa những nhu cầu, giữa những cố gắng để được thỏa mãn những sở thích và dục vọng thấp hèn, mà nhiều khi bất chấp cả lương tâm, luật pháp. Rồi khi đã đạt được điều họ mong muốn, họ lại nếm trải cảm giác trống rỗng, ê chề, mệt mỏi. Bởi vì của cải vật chất không phải là cùng đích mà chỉ là phương tiện phục vụ đời sống con người. Nếu người nào coi của cải vật chất là cùng đích của cuộc sống, thì của cải vật chất sẽ trở thành ông chủ độc ác đối với họ, còn họ sẽ trở thành nô lệ cho của cải vật chất, phụ thuộc, tôn thờ chúng và họ sẽ không thể có được niềm vui và hạnh phúc đích thực.       

         Chính lối sống hưởng thụ theo hướng tiêu cực đã làm cho con người rơi vào trạng thái lầm lạc, nhiều khi mất phương hướng, không còn đủ sáng suốt để phân biệt các giá trị đời sống. Họ luôn sống trong tình trạng bất ổn vì luôn phải lo toan, tính toán và không khi nào cảm thấy thỏa mãn, hài lòng với chính mình, với mọi thứ chung quanh, và cũng chính những con người bất ổn này đã tạo nên xã hội bất ổn.

          Chính lối sống hưởng thụ theo hướng tiêu cực cũng đã làm đảo lộn bậc thang giá trị trong xã hội, những điều xấu do lối sống hưởng thụ gây ra lại được cho là mới lạ, là mốt, lại được thịnh hành. Những giá trị nhân bản xưa nay vẫn được xã hội Việt Nam tôn trọng thì nay bị lung lay, thậm chí đảo ngược như lòng trung thực, tính hiền hòa, lễ độ, nhường nhịn, tốt lành, yêu thương, đùm bọc nhau…, phải nhường chỗ cho giả dối, bạo lực, vô lễ, tranh giành, hung dữ, ghét bỏ loại trừ, dửng dưng… Điều đáng tiếc và rất đáng quan tâm là giới trẻ ngày nay, một mặt, vì tuổi trẻ muôn đời vẫn là tuổi của ước mơ, của hy vọng và quảng đại, người trẻ mang trong mình sức sống dồi dào, mang trong mình nhiệt huyết cháy bỏng, họ thường là người năng động, tích cực trong mọi việc, trong mọi vấn đề của cuộc sống, kể cả tình yêu. Họ cũng là người dồi dào tình cảm, nhạy bén trong việc cảm thụ cái hay, cái đẹp của cuộc đời. Thế nhưng mặt khác, họ cũng là người dễ nông nổi, dễ đi quá trớn, đễ hấp thụ những điều xấu, nếu thiếu sự hướng dẫn chỉ bảo, thiếu sự uốn nắn từ trong gia đình, nhà trường và xã hội. Sống trong xã hội ngày nay, không ít bạn trẻ đã vấp ngã trước chủ nghĩa hưởng thụ, họ tôn thờ lối sống hưởng thụ theo chiều hướng tiêu cực. Họ hướng nhiều về lối sống thực dụng và hưởng thụ, “tiêu dùng điên loạn và xa hoa”[2].

            Họ nhiệt tình, hăm hở chăm sóc cho cái vẻ bề ngoài của mình và chỉ chú tâm tới ăn chơi hưởng thụ. Thú “ăn chơi bất cần thân thể” là một lối sống khá phổ biến hiện nay trong giới trẻ. Người trẻ tìm cách khẳng định mình trong cách ăn mặc theo mode, đi xe phân khối lớn, sài những thứ hàng xịn. Câu thành ngữ: “ngồi xế hộp – nộp thuế bar – ca di động” đã trở nên tiêu chuẩn và lý tưởng sống của nhiều bạn trẻ ngày nay. Đua xe tốc độ, quan hệ trai gái bừa bãi hoặc có những hành động mang tính phá hoại người khác chỉ để mua vui cho bản thân. Đó là lối sống ăn chơi, hưởng thụ của nhiều bạn trẻ trong xã hội ngày hôm nay[3].

           Nhiều bạn trẻ ngày hôm nay chỉ chú tâm tới chơi bời hưởng thụ mà không thấy có lý tưởng dấn thân nào cả. Họ không còn cảm nhận được lợi ích, ý nghĩa và sự cần thiết của việc học tập, sự cao cả của lao động và sự cần thiết của những thử thách, hy sinh gian khổ trong cuộc sống. Lối sống hưởng thụ, thưc dụng quá lớn đã kéo theo biết bao hậu quả, tai hại cho giới trẻ, cho đời sống xã hội. Vì thế trong xã hội, chúng ta không lạ gì khi nghe nói đến các tệ nạn như: Trộm cắp, giết người, tự tử, loạn luân, cờ bạc, hút chích…Những tệ nạn đó đã và đang phá hoại xã hội, làm cho xã hội bị rối loạn, bất ổn, luân lý đạo đức xuống cấp…, góp phần tạo nên một nền văn hóa của sự chết.

            Chủ nghĩa hưởng thụ với chủ trương hưởng thụ tối đa khoái lạc, mặc sức hưởng thụ những gì mình thích…, cũng đã ảnh hưởng tới đời sống đạo tại các Giáo Xứ, Giáo Họ. Chủ nghĩa hưởng thụ làm cho giới trẻ ngại khó, ngại khổ, ngại đi nhà thờ, ngại giữ luật Chúa, bỏ bê việc giữ đạo. Ngay cả các linh mục tu sĩ cũng có thể bị ảnh hưởng bởi lối sống hưởng thụ, ngại khó, ngại khổ, muốn sống giàu sang an nhàn, ngại dấn thân rao giảng Tin Mừng… Lối sống hưởng thụ như tạo thành một vòng xoáy trong lòng xã hội và ngay trong mỗi chúng ta[4]. Thật đau lòng khi mà chủ nghĩa hưởng thụ đang ngày một bành trướng khắp nơi để thách đố những ai còn niềm tin nơi Thiên Chúa là Đấng chân thật và vô cùng tốt lành, thánh thiện, nhưng chê ghét mọi tội lỗi, sự dữ, sự độc ác và ô uế. 

            Xã hội ngày hôm nay vẫn đang cần và rất cần những thành phần, những con người biết rung cảm, thao thức và khát khao hiến thân mình cho sứ mệnh cao cả là cứu độ con người. Để con người đừng mải chạy theo những dục vọng hão huyền, nhưng cần biết dừng lại, biết quỳ xuống và ngước mắt lên để cầu xin cùng Thiên Chúa. «Thế nhưng làm sao họ kêu cầu Đấng họ không tin? Làm sao họ có thể tin Đấng mà họ không được nghe, không được thấy? Làm sao mà nghe nếu không có ai rao giảng?. Làm sao mà rao giảng nếu không được sai đi?»[5]. Vì thế, các Kitô hữu, nhất là những người tu sĩ chúng ta hãy hăng hái dấn thân, để làm chứng cho mọi người biết rằng chủ nghĩa duy vật chất, chủ nghĩa hưởng thụ không thể đem lại hạnh phúc đích thực cho con người, con người không chỉ có thân xác mà còn có linh hồn, con người không chỉ sống ở đời này mà còn có hạnh phúc mai sau.

2.Chủ nghĩa tự do

          Ngày nay, con người rất ngưỡng mộ và đề cao tự do, hăng say theo đuổi tự do. Họ có lý, vì tự do đích thực là điều rất quý trọng mà chính Thiên Chúa muốn ban cho con người sự tự do này… Chính vì thế sự tự do có thể là tất cả để người ta sống nhờ nó, chết cho nó, và coi tự do như là điều quý hóa nhất nơi con người[6]. Tuy nhiên, cũng cần phải nói rằng trong xã hội loài người, khi nói về sự tự do thì có nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí có những quan điểm đối lập nhau. Một đàng, có những quan điểm khẳng định rằng con người không thể có tự do, tiêu biểu là Okot p’Bitek, một thi sĩ Đông phi cho rằng: Cá nhân không bao giờ tách khỏi xã hội mà họ là một phần, bởi vì chính ý nghĩa về con người là ai cũng luôn luôn bị ràng buộc vào các thể chế và các vai trò mà cá nhân chiếm giữ trong phạm vi các thể chế đó. “Tôi không thể đứng một mình, bởi vì chính nó được tạo thành qua mạng lưới các quan hệ xã hội trong phạm vi mà nó bị gán vào. Do đó, sự lệ thuộc vĩnh cửu dường như là số mệnh của con người”[7].

         Đàng khác, lại có những quan điểm cho rằng con người hoàn toàn có tự do, tự do tuyệt đối. Đại diện cho quan điểm này là tiểu thuyết gia người Nga Fyodor Dostoevsky (1821 – 1881). Theo ông : Con người sẽ làm mọi thứ để khẳng định sự tự do ý chí của họ, thậm chí họ làm cả những sự nguy hại và ngu xuẩn để có quyền ước muốn cho mình[8]. Nhưng trong thực tế cuộc sống nếu chúng ta không biết sử dụng đúng tự do thì sẽ ra sao?. Vì đời người chính là một bãi chiến trường cho sự tự do vật lộn và chọn lựa giữa cái xấu với cái đẹp, giữa cái thiện và cái ác… Có hàng loạt những câu hỏi được đặt ra như: Tự do có thật không? Thế nào là tự do? Tự do có giới hạn không? Giữa tự do thể lý và tự do luân lý có gì khác nhau?

          Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium ct Spes của Công Đồng Vaticanô II đã khẳng định: “Chưa bao giờ con người ý thức mãnh liệt về tự do như ngày nay”[9]. Tự do là có thật, và ngày nay con người đề cập nhiều tới vấn đề tự do như tự do tôn giáo, tự do phụng tự, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận… Vậy phải chăng tự do tuyệt đối ở đời này là giả tưởng, ảo vọng. Tuy nhiên những quy luật hợp đạo làm người buộc ta phải tuân theo để phát triển nhân vị, không hủy diệt tự do thật nơi con người.

          Để những điều trên được soi chiếu bởi chân lý mặc khải và bởi giáo huấn của Giáo Hội, chúng ta hãy mở từ điển Công giáo và đọc thấy: “Tự do phải được thực hiện theo sự hướng dẫn của lương tâm, đức ái và sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Bởi vì Thần khí của Chúa ở đâu thì ở đó có tự do”[10]. Nhờ tự do con người phát triển, trưởng thành trong chân lý và sự thiện. Như thế, tự do là khả năng bắt nguồn từ lý trí và ý chí, để hành động hay không hành động, làm việc này hoặc việc kia, nhờ đó, con người có thể thực hiện được những hành vi có ý thức và trách nhiệm.

           Tự do chính là một món quà quý giá mà Thiên Chúa ban cho con người, đó chính là khả năng tự quyết định, hướng cuộc đời mình về hạnh phúc. Tự do đạt tới mức hoàn hảo khi con người quy hướng về Thiên Chúa là chính nguồn hạnh phúc của đời mình[11] .Theo quan điểm Kitô giáo thì: Tự do là một khả năng tự trị và là một khả năng hiến thân. Hành vi tự do chủ yếu là một lựa chọn, nên tự do cũng là một khả năng chọn lựa. Do đó, có thể nói tự do chính là khả năng chọn lựa theo ý mình. Vì trong mỗi hành vi đều có ba yếu tố:  Đó là cân nhắc, quyết định và chịu trách nhiệm về điều mình đã quyết định[12].

         Theo cái nhìn của Kitô giáo thì con người tự do không phải tự mình mà có. Thiên Chúa tạo dựng con người có lý trí và tự do, nhờ đó con người có sáng kiến và làm chủ được hành vi của mình, vì con người có tự do là con người có khả năng hành động hay không hành động, chọn lựa sự chúc lành hay chúc dữ, giữa sự sống hay sự chết, giữa tội lỗi và ân sủng[13]. Bởi tự do đích thực là để sống công chính và can đảm, dám nói, dám làm, sẵn sàng đón nhận cái chết tử đạo[14].

          Vì tự do Thiên Chúa mang đến cho con người là tự do của sự thiện, và sự tự do của họ không những biểu lộ sự tốt lành của Thiên Chúa mà còn biểu lộ vẻ đẹp đẽ, cao trọng của phẩm giá con người. Tự bản chất lề luật cũng đến từ Thiên Chúa và nó cũng biểu lộ sự tốt lành của Ngài đối với con người. Bởi vì lề luật không làm mất đi sự tự do của con người. Trái lại khi tuân giữ lề luật của Thiên Chúa, con người xa lánh tội lỗi, không làm nô lệ cho tội, nô lệ cho ma quỷ, và họ sẽ có được tự do đích thực[15].

         Nhưng cũng hãy coi chừng kẻo sự tự do của chúng ta nên dịp cho những người yếu đuối sa ngã. Trong thư gửi tín hữu Ga-lat-ta. Thánh Phao lô đã nói: “Anh em đã được kêu gọi để hưởng tự do. Có điều đừng lợi dụng tự do để sống theo xác thịt, nhưng hãy lấy đức mến mà phục vụ lẫn nhau”[16]. Nhưng trên thực tế, con người đã lạm dụng tự do của mình, đã không tuân giữ lời của Thiên Chúa, đã lỗi phạm. Tội nguyên tổ cũng là lạm dụng sự tự do, để không tuân giữ lời Thiên Chúa. Nói cách khác khi con người lỗi phạm luật Chúa với tất cả tự do của mình, là con người đã tự do ngoảnh mặt đi với tình yêu của Ngài, con người quay hướng về sự tội, quay về với ngẫu tượng mà biểu tượng của nó là “Cây biết điều thiện điều ác”. Sự lạm dụng tự do trong tội Nguyên Tổ đã lỗi phạm luật tình yêu của Thiên Chúa, con người đã làm tổn hại trực tiếp tới mối quan hệ sâu sắc giữa Thiên Chúa với chính họ[17].

          Trong cuộc sống tu trì của chúng ta cũng vậy, nhiều khi chúng ta cũng chưa ý thức được cho đủ sự tự do Thiên Chúa ban, nên cũng có những lúc lạm dụng tự do mà làm những việc không chính đáng, trái với lương tâm và lề luật Chúa. Phần khác, lại vì những chi phối cuộc sống bên ngoài, bởi chủ nghĩa tự do phóng túng của con người ngày nay đã ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của người tu sĩ chúng ta.

           Trong xã hội, chúng ta có thể thấy nhiều những quan điểm khác nhau về tự do, nên chắc chắn sẽ có những cách sống khác nhau… Nhờ đức tin Công giáo, chúng ta nhìn nhận rằng sự tự do của con người là có giới hạn và con người có thể lầm lạc. Tội lỗi đã phát sinh như hậu quả của việc sử dụng sai sự tự do. “Thiên Chúa mơ ước những người tự do cảm thấy mình có trách nhiệm về mình, về những người thân cận của mình và về cả trái đất này”[18].

         Nhìn vào xã hội chúng ta đang sống, hỏi có bao nhiêu người hiểu được ý nghĩa thật của sự tự do, và dám chịu trách nhiệm về những hành vi tự do của mình?. Trong khi cuộc sống chúng ta luôn phải đấu tranh với quá nhiều sự, nhất là đấu tranh để chống lại tội lỗi. Nhưng để vượt qua được thì chúng ta phải cậy dựa vào sự nâng đỡ của Chúa, Người sẽ đỡ nâng ta bằng ân sủng của Người để ta được tự do, và cũng “chính để chúng ta được tự do mà Đức Kitô đã giải thoát ta”[19]. 

        Thế giới quanh chúng ta ngày nay còn tồn đọng rất nhiều những kiểu hành động tự do vô trách nhiệm, tự do ích kỷ, tự do vô luân, tự do phóng túng… và hậu quả của chúng là đưa tới vô vàn tội lỗi, là nguyên nhân đưa đến những đau khổ cho con người. Chính vì thế các Kitô hữu và nhất là các tu sĩ phải làm chứng cho sự tự do đích thực của những người làm con Thiên Chúa. Bởi chính Thiên Chúa, qua công nghiệp của Chúa Giêsu con Chúa đã giải thoát con người khỏi sự nô lệ của ma quỷ và tội lỗi, mang lại cho con người sự tự do đích thực, sự tự do làm con cái Thiên Chúa. Tuy nhiên, để con người có thể nhận được sự tự do đích thực mà Chúa Kitô mang lại thì trước hết họ phải sa lánh tội lỗi, hành động với lương tâm chân chính và nhất là tuân giữ các giới răn và lề luật của Thiên Chúa.

3.Sự phát triển của khoa học kỹ thuật

          Phải thừa nhận rằng sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi bộ mặt thế giới, xã hội trở lên văn minh hơn. Đất nước Việt Nam chúng ta cũng đang cùng với thế giới thay đổi. Từ một nước lạc hậu, sống về nông nghiệp, với lũy tre xanh bao quanh làng, thì Việt Nam ngày nay đang thay da đổi thịt mỗi ngày trong mọi lãnh vực, có thể gọi  là “bùng nổ” trong một số lãnh vực, đời sống vật chất và tinh thần của con người ngày càng được nâng cao. Tuy rằng, “Khoa học kỹ thuật phát triển đã tạo ra cho con người vô số những phương tiện, điều kiện để làm việc và vui sống, nhưng lại khó tạo ra cho con người có được một niềm vui đích thực”[20].

         Từ đầu thế kỷ XV đến nay, các ngành khoa học kỹ thuật đã có những bước tiến vượt bậc, từ sinh học, vật lý, hóa học, y dược học cho đến cả các ngành khoa học xã hội và nhân văn… Chúng ta có thể kể ra một số phát minh khoa học quan trọng đã làm thay đổi bộ mặt thế giới và đời sống con người ngày nay. Chẳng hạn, phát minh về máy hơi nước, sự ra đời của tàu hỏa và của các động cơ đốt trong; phát minh về dòng điện với sự ra đời của biết bao máy móc cần đến dòng điện để hoạt động; phát minh về phản lực với sự xuất hiện của máy bay, con tàu vũ trụ và vệ tinh; phát minh về nguyên tử lực với sự xuất hiện của các nhà máy điện nguyên tử, các máy móc dùng năng lượng nguyên tử; phát minh về vô tuyến điện với sự xuất hiện của truyền hình, của điện thoại di động; phát minh về điện toán và tin học với sự xuất hiện của máy vi tính và mạng internet…

          Ngoài ra còn biết bao những phát minh trong các lĩnh vực khác nữa như vũ trụ học, sinh vật học, y học…Chẳng hạn như đối y học, với sự đổi mới về phương pháp phẫu thuật, sự chiếu xạ, phương pháp chữa bệnh hóa chất đã hạn chế một mức độ nhất định số người chết do ung thư. Công nghệ cấy ghép mô và việc sử dụng những cơ quan nhân tạo đã kéo dài cuộc sống cho nhiều người vốn tưởng chừng như đã vô vọng, không còn cách cứu chữa. Mặc dù những thực hành này vẫn còn dẫn đến những bàn cãi về luân lý, đạo đức…, và cũng bởi vì chỉ số ít người có cuộc sống phong lưu được hưởng lợi từ những sản phẩm tốn kém này[21].

          Những ứng dụng của khoa học kỹ thuật đã cải thiện chất lượng cuộc sống, tuy nhiên vô tình nó đã gây nên sự chênh lệch mức sống ngày càng cao giữa người giàu và người nghèo, một bộ phận lớn sẽ bị tụt hậu do không theo kịp với đà tiến của xã hội, và một bộ phận giới chuyên môn đã bị lợi dụng, bị mua chuộc, phục vụ cho những hoạt động chính trị vô nhân đạo. Cũng như việc áp dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật đỉnh cao mà con người có thể chế tạo ra những vũ khí, những phương tiện khiến nước này có thể khống chế nước kia về nhiều mặt, chiến tranh nóng và chiến tranh lạnh xảy ra, khiến thế giới không ngừng biến động và luôn nơm nớp lo sợ về một cuộc thế chiến nữa sẽ xảy ra, và hậu quả của nó thì thật không thể lường được.

          Với đà tiến của khoa học kỹ thuật ngày nay, con người ngỡ rằng số mệnh của nhân loại đã ở trong tay mình, họ nghĩ rằng con người đã có thể làm được mọi sự, một thượng đế lấp chỗ trống đã không còn cần thiết nữa. Con người đã đủ trưởng thành và tự bước đi trên đôi chân, làm việc bằng đôi tay và đầu óc của mình, con người được tự do hoàn toàn và thỏa sức hưởng thụ những sản phẩm do mình làm ra. Họ rất tự tin và say sưa trong chiến thắng của mình vì đã loại được thượng đế ra khỏi cuộc sống của họ, nhưng lại chỉ có thượng đế mới biết được nỗi sợ hãi và trống rỗng sâu kín của họ.

          Chúng ta không phủ nhận những lợi ích to lớn mà khoa học kỹ thuật đã đem lại, tuy nhiên sự tham lam, ích kỷ và kiêu căng của con người đã biến chúng thành phương tiện phục vụ chiến tranh, tội ác, bất công và những thứ tương tự như thế.  Dẫu vậy, cho dù khoa học kỹ thuật có phát triển đến đâu thì con người vẫn không bao giờ có thể loại Thiên Chúa ra khỏi đời sống của mình. Bởi vì khoa học kỹ thuật chỉ có thể là những phương tiện giúp đỡ con người chứ không thể thay thế vị trí của Thiên Chúa.

         Hơn thế nữa, đối với những người chân chính, thì sự phát triển của khoa học kỹ thuật lại càng làm cho con người khám phá ra sự kỳ diệu trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa, giúp họ ngày càng nhận thấy giới hạn của mình trước Đấng Tạo Hóa toàn năng. Ngay ở Việt Nam chúng ta, dù chưa nhận biết đức tin Công Giáo, nhưng những người chân chính đã có thể nói: «Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên» (Theo Tục ngữ Hán Việt: Tức là tính việc và làm việc là do ta còn thành hay bại là do Trời).

        Để  khắc phục tình trạng này, chúng ta cần đến những triết gia và khoa học gia chân chính, những nhà lãnh đạo công tâm, những nhà lập pháp và giáo dục khôn ngoan, những thần học gia và tu sĩ đạo đức thánh thiện, bởi họ là những người đi tiên phong trong việc hướng dẫn phát triển nhân loại này. Những Kitô hữu và hơn hết là các tu sĩ chúng ta cần làm chứng cho thế giới thấy rằng của cải vật chất, tiền tài danh vọng, và cả sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng chỉ là những phương tiện để phục vụ những nhu cầu của con người, chứ đó không phải là cùng đích của đời sống chúng ta. Vì vậy mà hết mọi Kitô hữu, các tu sĩ, những chứng nhân sống động hãy sống và làm chứng cho mọi người thấy rằng, sống tinh thần khó nghèo thì luôn luôn cần thiết, nhất là trong một thế giới khi mà đời sống vật chất ngày càng được nâng cao, con người tôn thờ vật chất, khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển.

        Đối với người tu sĩ cũng vậy, vì chúng ta sống trong một xã hội đang tôn vinh sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, và điều này cũng đã ảnh hưởng đến đời sống tu sĩ rất nhiều. Vậy nếu ta không chạy mau, không tiến mau và không dành tất cả cho công việc đào tạo kiến thức thì ta sẽ đánh mất vị trí của mình, sẽ thụt lùi theo thời đại… và thế là một cuộc tranh đua, cạnh tranh theo tinh thần thế tục xảy ra trong các cộng đoàn tu trì. Nếu ta không giữ quân bình đủ giữa đạo đức và kiến thức xã hội, liệu ta có đứng vững trong ơn gọi không?.

        Đứng trước một thực trạng xã hội đang có quá nhiều những biến chuyển đến chóng mặt như ngày hôm nay, thuận lợi có, phương tiện có nhưng cũng không ít những thách đố, khó khăn mà cuộc sống con người phải trải qua. Đặc biệt là sự thay đổi, lối sống của con người thời nay đã gây ảnh hưởng nhiều đến cả giới tu sĩ. Vậy nên, để sống với và vượt qua được những thách đố thời đại người tu sĩ phải can đảm dấn thân, thận trọng, khôn ngoan trong mọi phương diện, hoàn cảnh.

                                                                                     Hồng Nhung

[1]  X. PHANXICÔ, Tông huấn niềm vui Tin Mừng Evangelii Gaudium, Bản dịch tiếng Việt (2013) của ủy ban loan báo Tin Mừng/Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, số 2, tr7.

[2]  NGUYỄN THỊ OANH, Thanh niên – Lối sống, Nhà xuất bản trẻ, tr. 7.   

[3]  X. LÊ NHÂN TÂM, Giới trẻ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Thành Phố Hồ Chí Minh 2004, tr. 305.

[4]  X. A.NGUYỄN HỮU LONG, Bài viết của Giám mục Phụ tá Anphong Nguyễn Hữu Long, Ban Giáo Lý Toàn Quốc 2014.

[5]  Rm 10, 14-15a.

[6]  X. Học thuyết Xã Hội Công Giáo, Bản dịch của Nguyễn Tri Sử 1991, tr 161-162.

[7]  Truy Tìm  Triết Học, Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin 2001, tr 474

[8]  Truy Tìm Triết Học, Nhà Xuất Bản Văn Hóa Thông Tin 2001, tr 454

[9]  X. VATICANÔ II, Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay Gaudium et Spes, số 4, Nhà Xuất bản tôn giáo 2012, tr. 219.

[10]  2Cr 3,17

[11]  Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam-Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, số 1731.

[12]  X. Quan niệm Ki tô giáo về con người Đại Chủng Viện Huế, Bản dịch của Trần Thái Đỉnh và Nguyễn Bình Tỉnh 1997, tr. 205-207.

[13]  X. St 1, 26; 2, 16-17; Hc 15, 14.

[14]  X. Cv 2, 29; 4, 13.

[15]  X. ĐỖ HOÀNG, Tự do và lề luật, Nhà xuất bản Phương Đông, tr.30.

[16]  Gl 5, 13; Rm 6, 18; 1Cr 8,9; Mt 7, 12.

[17]  X. ĐỖ HOÀNG, Tự do và lề luật, Nhà Xuất Bản Phương Đông, tr.37.

[18]  Youcat Việt Nam, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo, Chuyển ngữ Lm. Nguyễn Mạnh Đồng.

[19]  Gl 5, 1

[20]  X.PHANXICÔ, Tông huấn niềm vui  Tin Mừng Evangelii Gaudium,  Bản dịch tiếng Việt (2013) của ủy ban loan báo Tin Mừng/Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, số 2, tr. 12.

[21]  LÊ KHẢ KẾ, Văn Hóa Châu Âu, Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 2010.