Diễn từ của Đức Thánh Cha nhân kỷ niệm 70 năm thành lập Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô

166 lượt xem 23 Tháng Sáu, 2018

Lúc 8 giờ 30 sáng thứ Năm 21 tháng Sáu, Đức Thánh Cha đã ra phi trường Fiumicino để đáp máy bay sang Genève. Chuyến tông du thứ 23 của Đức Thánh Cha bên ngoài Italia là chuyến tông du ngắn nhất, chỉ có một ngày và là chuyến bay quốc tế ngắn nhất của ngài từ khi lên ngôi Giáo Hoàng. Máy bay của Đức Thánh Cha đã hạ cánh xuống Genève lúc 10:10 sáng giờ địa phương.

Sau một cuộc họp riêng với tổng thống liên bang Thụy Sĩ, Alain Berset, điểm dừng chân đầu tiên của ngài là Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô.

Đức Thánh Cha Phanxicô là vị Giáo Hoàng thứ 3 đến thăm Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô sau chân phước Giáo Hoàng Phaolô 6 năm 1969 và Thánh Gioan Phaolô 2 ngày 12 tháng 6 năm 1982. Đức Phanxicô được mời đến thăm tổ chức này nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Hội đồng đại kết các Giáo Hội Kitô, một tổ chức đại kết rộng lớn nhất trong phong trào đại kết hiện nay, qui tụ 348 Giáo Hội Kitô thành viên gồm Chính Thống, Tin Lành, Anh giáo cùng nhiều cộng đoàn Giáo Hội độc lập khác, với tổng cộng 500 triệu tín hữu.

Mục sư Tổng Thư ký, là Tiến sĩ Olav Fykse Tveit, và nữ Mục sư Agnes Aboum, là Điều Phối Viên, đã chào mừng Đức Thánh Cha và trình bày hành trình đại kết mà Hội đồng theo đuổi trong 70 năm qua.

Trong diễn từ của ngài, Đức Thánh Cha nói:

Anh chị em thân mến,

Tôi rất vui được gặp các bạn và tôi cảm ơn sự chào đón nồng nhiệt của các bạn. Đặc biệt, tôi bày tỏ lòng biết ơn của tôi với Mục sư Tổng thư ký, Tiến sĩ Olav Fykse Tveit, và Điều Phối Viên, Tiến sĩ Agnes Abuom vì những lời tốt đẹp và lời mời của các vị nhân dịp kỷ niệm bảy mươi năm thành lập Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô.

Trong Kinh Thánh, bẩy mươi năm tiêu biểu cho một khoảng thời gian đáng kể, một dấu hiệu của ân sủng Thiên Chúa. Nhưng bẩy mươi cũng là một con số nhắc nhở chúng ta về hai đoạn quan trọng trong Tin Mừng. Trong đoạn thứ nhất, Chúa yêu cầu chúng ta tha thứ cho nhau không chỉ bảy lần mà là bảy mươi lần bảy (Mt 18:22). Con số đó, tất nhiên, không được đưa ra như một giới hạn, nhưng mở ra một chân trời rộng lớn; nó không định lượng công lý nhưng được dùng như thước đo cho một lòng bác ái có khả năng tha thứ vô hạn. Sau nhiều thế kỷ xung đột, lòng bác ái đó giờ đây cho phép chúng ta đến với nhau như anh chị em, trong hòa bình và với lòng biết ơn Chúa Cha chúng ta.

Nếu chúng ta có thể ngồi đây ngày hôm nay với nhau, thì cũng nhờ tất cả những người đã đi trước chúng ta biết chọn con đường tha thứ và không từ bỏ bất cứ nỗ lực nào để đáp lại thánh ý của Chúa để “tất cả có thể nên một” (xem Jn 17:21). Trong tình yêu chân thành đối với Chúa Giêsu, họ không cho phép mình bị kẹt trong những bất đồng, nhưng thay vào đó dám nhìn một cách dũng cảm vào tương lai, tin tưởng nơi sự hiệp nhất và phá vỡ những rào cản của nghi ngờ và sợ hãi. Thánh Grêgôriô thành Nyssa, một người cha trong đức tin thời xa xưa, trong bài giảng về Diễm Tình Ca, đã nhận xét chí lý rằng: “Khi tình yêu đã loại bỏ hoàn toàn nỗi sợ hãi, và nỗi sợ hãi đã được biến thành tình yêu, thì sự hiệp nhất mà Chúa Cứu Thế mang đến cho chúng ta sẽ được thực hiện viên mãn”. Chúng ta là những người thừa kế đức tin, đức cậy, và đức mến của tất cả những người, bởi quyền năng bất bạo động của Tin Mừng, đã tìm thấy can đảm để thay đổi tiến trình lịch sử, một lịch sử đã dẫn chúng ta đến sự nghi ngờ và không tin tưởng lẫn nhau, và do đó góp phần vào vòng xoắn trôn ốc những phân mảnh liên tục. Nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng truyền cảm hứng và hướng dẫn hành trình đại kết, chiều hướng đã thay đổi và một con đường cả cũ lẫn mới đã được mở rộng không thể đảo ngược lại: đó là con đường của một sự hiệp thông hòa giải nhằm thể hiện tình huynh đệ mà ngay cả lúc này đây đã đoàn kết các tín hữu.

Số bảy nhắc nhở chúng ta về một đoạn Tin Mừng khác. Nó nhắc đến những môn đệ mà Chúa Giêsu, khi thi hành sứ vụ công khai của Ngài, đã sai các ông đi truyền giáo (xem Lc 10: 1), và là những vị được kính nhớ đặc biệt trong một số Giáo hội Kitô Đông phương. Số lượng các môn đệ đó phản ánh số lượng các dân tộc trên thế giới được tìm thấy trên các trang đầu tiên của Kinh Thánh (xem Sáng thế Ký 10). Điều này gợi ý cho chúng ta điều gì, nếu không phải là sứ vụ truyền giáo được hướng đến tất cả các quốc gia và rằng mọi môn đệ, để xứng đáng với danh nghĩa này, phải trở thành một tông đồ, một người truyền giáo. Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô được sinh ra để phục vụ cho phong trào đại kết, mà chính phong trào này bắt nguồn từ những lời hiệu triệu truyền giáo mạnh mẽ: vì làm sao các Kitô hữu có thể công bố Tin Mừng nếu chính họ lại chia rẽ với nhau? Mối quan tâm bức xúc này vẫn hướng dẫn hành trình của chúng ta và được căn cứ nơi lời cầu nguyện của Chúa để tất cả có thể nên một, “ngõ hầu thế giới có thể tin” (Ga 17:21).

Anh chị em thân mến, cho phép tôi không chỉ cảm ơn sự dấn thân của các bạn đối với sự hiệp nhất, mà còn được bày tỏ một mối ưu tư. Nó xuất phát từ một ấn tượng theo đó chủ nghĩa đại kết và việc truyền giáo không còn gắn bó chặt chẽ với nhau như lúc đầu. Tuy nhiên, nhiệm vụ truyền giáo được ủy thác cho chúng ta, vượt xa việc thiết lập các dịch vụ và thúc đẩy sự phát triển con người, không thể bỏ qua nội dung hay làm trống rỗng nội dung của nó. Sứ vụ rao giảng Tin Mừng quyết định căn tính của chúng ta. Việc rao giảng Tin Mừng đến tận cùng trái đất là một phần của chính chúng ta như các tín hữu Kitô. Tất nhiên, cách thức mà nhiệm vụ này được thực hiện sẽ thay đổi theo thời gian và địa điểm. Khi đối mặt với cám dỗ kinh niên muốn giản lược Tin Mừng thành những cách suy nghĩ trần thế, chúng ta phải liên tục nhắc nhở chính mình rằng Giáo Hội của Chúa Kitô phát triển là nhờ lôi cuốn được người ta.

Nhưng điều gì tạo nên sức lôi cuốn này? Chắc chắn không phải là những ý tưởng, chiến lược hay các chương trình của chúng ta. Niềm tin vào Chúa Giêsu Kitô không phải là thành quả của một sự đồng thuận, cũng như Dân Thiên Chúa không thể bị giản lược thành một tổ chức phi chính phủ. Không, sức lôi cuốn bao gồm hoàn toàn trong món quà tuyệt vời khiến cho Thánh Phaolô rất ngạc nhiên: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người” (Phil 3:10). Niềm tự hào duy nhất của chúng ta là “được biết vinh quang của Thiên Chúa rạng ngời trên gương mặt Đức Kitô.” (2 Côrintô 4: 6), nhờ Chúa Thánh Thần, Đấng ban sự sống. Đây là kho báu mà chúng ta, mặc dù chỉ là các bình sành trần thế (xem câu 7), phải mang đến cho thế giới của chúng ta, một thế giới đáng yêu nhưng đầy rẫy những chông gai. Chúng ta sẽ không trung thành với nhiệm vụ được giao phó cho chúng ta, nếu chúng ta giản lược kho báu này thành một chủ nghĩa nhân văn thuần túy, hợp thời trang của thời điểm này. Chúng ta cũng không phải là những người bảo vệ chí cốt cho Tin Mừng nếu chúng ta chỉ cố gắng gìn giữ bằng cách chôn dấu đi vì sợ thế giới này và những thách thức của nó (xem Mt 25:25).

Điều thực sự cần thiết là một cách thế vươn ra mới trong việc truyền giảng Tin Mừng. Chúng ta được mời gọi trở thành một dân tộc trải nghiệm và chia sẻ niềm vui của Tin Mừng, ca ngợi Chúa và chăm sóc anh chị em chúng ta với trái tim cháy bỏng ao ước mở ra những chân trời mới của chân, thiện, mỹ không tưởng tượng được với những người chưa được đón nhận hồng ân được biết Chúa Giêsu. Tôi tin rằng một sự gia tăng năng động truyền giáo sẽ dẫn chúng ta đến sự hiệp nhất lớn hơn. Cũng giống như trong những ngày đầu, khi việc rao giảng đã đánh dấu mùa xuân của Giáo Hội, việc truyền giáo ngày nay sẽ đánh dấu sự nở hoa của một mùa xuân đại kết mới. Như trong những ngày đó, chúng ta hãy tụ tập lại với nhau trong tình đồng môn chung quanh Thầy chí thánh, với một chút xấu hổ về những nghi ngại liên tục của chúng ta, và cùng với Phêrô, chúng ta hãy thân thưa với Ngài: “Lạy Chúa, chúng con còn biết theo ai? Chúa có lời ban sự sống đời đời.” (Ga 6:68)

Anh chị em thân mến, tôi muốn đích thân tham dự các lễ kỷ niệm này của Hội đồng Giáo Hội Thế giới, ít nhất là để tái khẳng định cam kết của Giáo Hội Công Giáo với ý hướng của phong trào đại kết và khuyến khích sự hợp tác giữa các giáo hội thành viên với nhau và với các đối tác đại kết của chúng ta. Về vấn đề này, tôi muốn phản ánh một chút về chủ đề được chọn cho ngày này: Tiến bước, cầu nguyện và làm việc cùng nhau.

Tiến bước. Đúng thế, nhưng đi đâu? Từ tất cả những gì đã được nói ở trên, tôi muốn đề xuất một phong trào gồm 2 mặt: hướng nội và hướng ngoại. Hướng nội, để di chuyển liên tục đến trung tâm, để thừa nhận rằng chúng ta là cành ghép tháp nhập vào một cây nho là Chúa Giêsu (xem Ga 15: 1-8). Chúng ta sẽ không sinh hoa trái trừ khi chúng ta giúp đỡ nhau để duy trì sự hiệp nhất với Ngài. Hướng ngoại để hướng tới nhiều vùng ngoại vi hiện sinh của thế giới ngày nay, để tham gia cùng nhau trong việc mang ân sủng chữa lành của Tin Mừng đến cho những anh chị em đau khổ của chúng ta. Chúng ta có thể tự hỏi liệu chúng ta đang đi trong sự thật hay chỉ đơn giản bằng những lời nói đầu môi chót lưỡi, liệu chúng ta có giới thiệu các anh chị em của chúng ta với Chúa vì mối quan tâm thực sự dành cho họ, hay là họ bị loại bỏ khỏi những quan tâm thực sự của chúng ta. Chúng ta cũng có thể tự hỏi bản thân mình, liệu chúng ta tiếp tục đi theo những bước chân của chính mình, hay đang cất bước lên đường với xác tín mang Chúa đến với thế giới của chúng ta.

Cầu nguyện. Cả trong những lời cầu nguyện, giống như khi tiến bước, chúng ta không thể tiến về phía trước bởi chính mình bởi vì ân sủng của Thiên Chúa không được điều chỉnh cho phù hợp với từng cá nhân nhưng lan tỏa một cách hài hòa giữa các tín hữu là những người yêu mến nhau. Khi đọc kinh “Lạy Cha”, chúng ta cảm thấy một tiếng vang trong chúng ta rằng chúng ta không chỉ là con cái của Thiên Chúa, nhưng cũng là những anh chị em với nhau. Cầu nguyện là dưỡng khí của phong trào đại kết. Không cầu nguyện, sự hiệp thông trở nên ngột ngạt và không đem lại tiến bộ, bởi vì chúng ta ngăn cản gió của Thánh Linh đang thúc đẩy chúng ta tiến lên. Chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta cầu nguyện cho nhau như thế nào? Chúa cầu nguyện để chúng ta nên một: chúng ta bắt chước Ngài như thế nào trong vấn đề này?

Làm việc cùng nhau. Ở đây tôi muốn khẳng định lại rằng Giáo Hội Công Giáo thừa nhận tầm quan trọng đặc biệt của công việc được thực hiện bởi Ủy ban Đức tin và Phẩm trật và mong muốn tiếp tục đóng góp cho công việc đó thông qua sự tham gia của các nhà thần học có trình độ cao. Hành trình tìm kiếm một viễn tượng chung của Ủy ban Đức tin và Phẩm trật, cùng với việc nghiên cứu những vấn nạn luân lý và đạo đức, chạm đến các lĩnh vực quan yếu đối với tương lai của phong trào đại kết. Tôi cũng muốn đề cập đến sự hiện diện tích cực của Giáo Hội trong Ủy Ban Truyền Giáo Thế Giới; sự hợp tác với Văn phòng Đối thoại và Hợp tác Liên tôn, gần đây nhất về chủ đề tầm quan trọng của giáo dục vì hòa bình; và sự chuẩn bị chung các bản văn cho Tuần cầu nguyện hiệp nhất Kitô giáo. Những hình thức này và nhiều hình thức làm việc cùng nhau là những yếu tố cơ bản trong một sự hợp tác tốt đẹp được thử thách qua dòng thời gian. Tôi cũng coi trọng vai trò thiết yếu của Viện Đại kết Bossey trong việc đào tạo các nhà lãnh đạo mục vụ và học thuật trong tương lai cho nhiều Giáo hội và hệ phái Kitô trên toàn thế giới. Giáo Hội Công Giáo từ lâu đã tham gia vào dự án giáo dục này thông qua sự hiện diện của một giáo sư Công Giáo tại các phân khoa đại học, và mỗi năm tôi đều có niềm vui chào mừng nhóm sinh viên đến thăm Rome. Tôi cũng đề cập đến, như một dấu chỉ tốt của “tinh thần đại kết đồng đoàn” là sự tham gia ngày càng đông đảo trong Ngày Cầu Nguyện cho Sự Chăm Sóc Sáng Tạo.

Tôi cũng lưu ý rằng công việc của các cộng đồng Kitô hữu của chúng ta được định nghĩa đúng đắn bởi từ diakonia (tác vụ). Đó là cách chúng ta theo Thầy chí thánh là Đấng đến “không phải là để được phục vụ nhưng để phục vụ” (Mc 10:45). Các gam màu rộng lớn của các dịch vụ được cung cấp bởi các giáo hội thành viên của Hội Đồng đại kết các Giáo Hội Kitô tìm thấy biểu hiện đặc trưng trong cuộc hành hương của Công lý và Hòa bình. Tính khả tín của Tin Mừng được thử thách qua cách thế các Kitô hữu đáp lại tiếng kêu của tất cả những người, ở mọi nơi trên thế giới, đang bị đối xử bất công từ một sự lây lan đáng lo ngại của não trạng loại trừ, mà khi tạo ra tình cảnh nghèo đói, nó đang nuôi dưỡng các xung đột. Càng dễ bị tổn thương người dân càng dễ bị thiệt thòi, thiếu lương thực, việc làm và một tương lai, trong khi số người giàu thì ít đi, và những kẻ giàu thì giàu sụ. Chúng ta hãy để mình bị thách thức để có lòng bác ái trước những tiếng kêu của những người đau khổ: “chương trình của Kitô hữu là một trái tim không mù loà” (Benedict XVI, Deus Caritas Est, 31). Chúng ta hãy xem những gì chúng ta có thể làm cụ thể, thay vì tỏ ra nản lòng hơn vì những gì chúng ta không thể làm được. Chúng ta cũng hãy tìm đến nhiều anh chị em của chúng ta ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là ở Trung Đông, là những người phải đau khổ chỉ vì họ là những Kitô hữu. Chúng ta hãy đến gần họ. Xin cho chúng ta đừng bao giờ quên rằng hành trình đại kết của chúng ta được đi trước và được đồng hành bởi một phong trào đại kết đã được hiện thực hóa, là phong trào đại kết bằng máu, là điều thúc giục chúng ta tiến lên phía trước.

Chúng ta hãy khuyến khích lẫn nhau để vượt qua cám dỗ muốn hoàn thiện một số mô hình văn hóa nhất định và bị cuốn hút trong các lợi ích phe phái. Chúng ta hãy giúp những người nam nữ thiện chí quan tâm nhiều hơn đến các sự kiện và tình huống có ảnh hưởng đến một phần lớn nhân loại nhưng hiếm khi được đưa lên trang nhất các tờ báo. Chúng ta không thể nhìn theo cách khác. Thật là một vấn nạn nghiêm trọng khi các Kitô hữu tỏ ra thờ ơ với những người đang quẫn bách. Thậm chí còn nghiêm trọng hơn khi một số người tin rằng những phúc lành họ nhận được là dấu chỉ rõ ràng sự ưu ái Chúa dành riêng cho họ, chứ không phải là một lời hiệu triệu kêu gọi trách nhiệm của họ đối với gia đình nhân loại và đối với việc bảo vệ thiên nhiên. Chúa, Đấng là người Samaritan nhân lành của nhân loại (x Lc 10: 29-37), sẽ chất vấn chúng ta về tình yêu thương dành cho những người hàng xóm của chúng ta, và cho mỗi người hàng xóm của chúng ta (xem Mt 25: 31-46). Vì vậy, chúng ta hãy tự hỏi: Chúng ta có thể làm gì cùng nhau? Nếu một hình thức phục vụ cụ thể là có thể được, tại sao lại không lên kế hoạch và mang ra thực hiện với nhau, và do đó bắt đầu trải nghiệm một tình huynh đệ mạnh mẽ hơn trong việc thực thi cùng nhau các cử chỉ bác ái cụ thể?

Anh chị em thân mến,

Tôi xin gửi lời cảm ơn thân mật đến các bạn. Chúng ta hãy giúp đỡ lẫn nhau bước đi, cầu nguyện và làm việc cùng nhau, để với sự giúp đỡ của Chúa, sự hiệp nhất có thể phát triển và thế giới có thể tin. Cảm ơn các bạn.


Source: Libreria Editrice Vaticana – ECUMENICAL PILGRIMAGE OF HIS HOLINESS FRANCIS TO GENEVA TO MARK THE 70th ANNIVERSARY OF THE FOUNDATION OF THE WORLD COUNCIL OF CHURCHES ECUMENICAL MEETING ADDRESS OF HIS HOLINESS WCC Ecumenical CentreThursday, 21 June 2018