Chúa nhật XXIII thường niên, năm B: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa

140 lượt xem 8 Tháng Chín, 2018

CHÚA NHẬT XXIII THƯỜNG NIÊN, NĂM B
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa
Lời Chúa: Is 35,4-7a; Gc 2,1-5; Mc 7,31-37

Lm Jude Siciliano OP

23rd SUNDAY (B)  Isaiah 35:4-7a; Psalm 146; James 2: 1-5; Mark 7: 31-37
Do you find yourself almost mute when someone close to you is in crisis, or discouraged? What can we say that will pull them out of the depths of their misery? We try to be a comfort to them just by showing up – being at their side is a sign that they aren’t alone. We do our best to speak words of encouragement, “Everything will turn out okay. Don’t worry.” We are well intentioned, but try as we can, our words can’t rescue them from their distress. Our words can’t fulfill what they say – solve the problem, raise the spirits, drive away the pain.
But then there is God, who promises to be with us and not walk out on us in hard times. God, who speaks words of comfort that actually do what they say – console and strengthen. Today we hear Isaiah speak for God to the Israelites, who are in a miserable, Babylonian exile. They are a defeated and a shamed people. Nothing could be more impossible. Forget about returning to the promised land; forget about rebuilding the torn-down Jerusalem; forget about ever worshiping again in their revered Temple – it lay in complete ruin.
To the people and hopeless exiles Isaiah speaks words of comfort from God. “Be strong, fear not! Here is your God who comes with vindication.” The people have nothing to pin their hopes on. Their situation is impossible. They can’t help themselves – but God can. Can they trust the words the prophet speaks to them?
I note the threefold repetition of the promise-packed “then.” It is an assurance of God’s noticing their plight and a promise of help. It isn’t our, “There, there, things will be okay.” – as well-intentioned as those words are meant to be. No, it’s God speaking words of absolute assurance, “Then will the eyes of the blind be opened…Then will the lame leap like a stag… Then the tongue of the mute will sing.” As impossible as it seems, “Then,” God promises, “it will happen.”
What can we do about the present scandal and mess our church is in these days? Are we back to the times of the corrupt Renaissance church? When and how will God lead us out of this new exile? Certainly there is work for us all to do. But mere human effort will not bring about a healed and renewed church. “Speak, Lord, your servants are listening.” Today’s Psalm joins Isaiah’s voice of promise: “The Lord sets captives free. The Lord gives sight to the blind, the Lord raises up those who were bowed down.” And I want to ask, “When will this happen, O Lord?” I try to put faith in Isaiah’s words: “Then” it will come about. It will happen.” How? When? I wonder.
As broken and corrupt as the church was in the Renaissance (circa 1419-1699) God raised up powerful, prophetic and healing people like: Theresa of Avila, Ignatius of Loyola, John of the Cross, Rose of Lima, Pius V, etc. They rekindled and renewed the faith in their times. What will God do for us now in our new exile? Will God speak through our church leaders? Let’ hope, though some have failed us miserably. We will need to be more inclusive and attentive to the laity who bring their gifts, diligence and service to us. But are we open to hear these prophetic witnesses to God’s voice and presence among us?
We have to admit we haven’t been very receptive to our laity in the past. We clerics have frequently treated them as second-class members. While we might have accepted their help, we have not always listened to God speaking to us through them. We need to hear and receive the gifts the laity have to give us throughout the institutional structures of our church. If we are receptive, Isaiah’s promise to the exiles will once again be fulfilled among us. “Then will the eyes of the blind be opened, the ears of the deaf be cleared. Then will the lame leap like a stag, Then the tongue of the mute will sing.” Today, from our current exile, we call on God to fulfill those promises.
In Jesus’ healing of the deaf man, Mark is clearly linking his ministry to Isaiah’s prophecy. The messianic mission Isaiah foretold is fulfilled in Jesus. He enables the deaf to hear, the blind to see and the lame to walk – just as Isaiah promised. In Jesus the hopes of those in exile have been fulfilled. God has done what humans couldn’t. The “then moment” is no longer a future hope to be longed for. It is a present reality.
A friend, whose hearing has deteriorated these past years, has just gotten a hearing aid. It’s one of those high tech ones and is almost invisible when he wears it. He claims it’s like a miracle. Now he can hear the soft voice of his three-year-old granddaughter; his wife when she speaks to him from the next room and, to his family’s relief, he doesn’t have to have the volume of the TV blaring. Suppose he were completely deaf, like the man in the gospel? How could my friend start and build new relationships? How difficult it would be to deepen those he already has.

The first words the deaf man in the gospel would have heard were those Jesus spoke, “Ephphatha – Be opened!” After that miracle the man not only hears, he speaks plainly. Jesus was traveling in Gentile territory, so the deaf man probably was a Gentile. Religious folk would have considered him outside the pale. When Jesus was in his own territory he met opposition from the Pharisees and the scribes. You would have thought these religious leaders, with their knowledge of the prophets, would have recognized Jesus’ anointed mission. But, though they had physical hearing and sight, they were deaf and blind to Jesus.
That is a serious message for us religious folk. While the religious people were closed to Jesus, those in need were not. Their helplessness left them open to his love and healing touch. The disabled and outcasts are healed and the outsiders welcomed by him.
In the church’s baptismal liturgy the presider touches the ears and mouth of the child with his thumb and prays that the Lord will “…soon touch your ears to receive his word and your mouth to proclaim his faith, to the praise and glory of God, the Father.” That moment begins our journey of listening to God’s word and putting it into practice throughout our lives. Like the deaf man healed by Jesus, our ears are opened and we speak plainly, by words and deeds, what we have heard in God’s word.
We pray for a mind and heart opened to Jesus today as he speaks to us in his word and through those around us, especially the neediest and most vulnerable. Have we heard him in their need? If not, we ask Jesus to do for us what he did for the deaf man – touch our ears and speak his “Ephphatha.” Then, like the man, we too will speak plainly and declare God’s love for all – especially the least and the outsider.

Isaia 35:4-7a; Tvịnh 145; Giacôbê 2: 1-5; Máccô 7: 31-37

Bạn có lần nào cảm thấy sửng sốt khi nghe tin một người thân của bạn bị khủng hoảng hay bị chán nản không? Bạn có cách nói gì để đem người đó ra khỏi cảnh chìm đắm trong đau khổ đó không? Bạn cố gắng an ủi người đó bằng cách tiếp cận thân thương để người đó cảm thấy bớt cô đơn. Bạn cố gắng hết sức nói lời động viên “xin bạn lo lắng, rồi mọi sự rồi sẽ ổn mà”. Dù bạn nói lời đó với hết tâm tình, nhưng với lời nói đó bạn vẫn không cứu người đó thoát ra khỏi nổi đau khổ. Và lời nói cúa bạn vẫn chưa đem đến thành quả- là giải quyết vấn đề, nâng tinh thần người đó lên và làm cho họ ra khỏi cơn đau của tâm hồn.

Nhưng có Thiên Chúa là Đấng hứa sẽ ở với chúng ta, và không bỏ rơi chúng ta trong những lúc khốn khó. Lời Thiên Chúa an ủi có thể có hiệu quả và cho chúng ta năng lực. Hôm nay chúng ta nghe ngôn sứ Isaia thay mặt Thiên Chúa nói với dân Israel đang ở trong cảnh lưu đày khốn khổ ở Babylon. Dân Israel bị thua trận và bị bắt đi lưu đày. Thật là không có gì tệ hại hơn điều đó! Hãy quên đi việc trở về miền đất hứa của Chúa, hãy quên đi việc xây dựng lại Giêrusalem hoang tàn đổ nát, hãy quên đi việc thờ phượng trong Đền Thờ kính mến của họ vì Đền Thờ đã bị đổ nát hoang tàn.

Đối với dân Israel đang vô vọng trong sự lưu đày, ngôn sứ Isaia nói lời an ủi của Thiên Chúa: “hãy can đảm lên, đừng sợ. Thiên Chúa của anh em đây rồi! Sắp tới ngày báo phục”. Dân Ísrael không còn gì để hy vọng. Tình cảnh của họ đã đến lúc cạn kiệt, họ không thể tự giúp bản thân họ được. Nhưng Thiên Chúa có thể làm được. Họ có thể tin vào lời của ngôn sứ Isaia nói với họ không?

Tôi để ý thấy có ba lần lời hứa lập đi lập lại “BẤY GIỜ”. Đó là lời cam đoan của Thiên Chúa cho dân Israel. Đức Chúa đã thấy cảnh khốn cùng của họ. Và hứa là Ngài sẽ giúp đỡ họ. “Bấy giờ, đau khổ và khóc than sẽ biến mất!”. Những lời đó đầy ý nghĩa. Không, chính Thiên Chúa nói với họ lời cam đoan “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, bấy giờ miệng lưỡi người câm sẽ reo hò”. Nghe như không thể xãy ra được nếu như những lời “bấy giờ” đó xuất ra từ lời Thiên Chúa hứa “sẽ xãy ra”!

Trong thời buổi này, với những gương xấu xãy ra trong giáo hội, chúng ta có thể làm gì được? Chúng ta hình như sống lại thời phục hưng đầy dẫy sa đọa của giáo hội phải không? Thiên Chúa sẽ dẫn dắt chúng ta lúc nào và bằng cách nào để ra khỏi cảnh lưu đày mới nầy? Chắc là tất cả chúng ta đều có việc phải làm. Nhưng với sức phàm nhân chúng ta không thể nào đem lại sự chữa lành cho giáo hội. “Xin Thiên Chúa hãy nói, tôi tớ Thiên Chúa đang lắng nghe”. Bài thánh vịnh hôm nay cùng với lời ngôn sứ Isaia nới lên lời Thiên Chúa hứa. “Chúa giải phóng những ai tù tội. Chúa mở mắt cho kẻ mù lòa. Chúa cho kẻ bị dìm xuống đứng thẳng lên”. Và tôi muốn thêm “Lạy Chúa, bao giờ những điều này sẽ xãy ra?”. Tôi cố gắng tin tưởng vào lời ngôn sứ Isaia “Bấy giờ, tôi tự hỏi mọi sự sẽ đến như thế nào, và khi nào sẽ đến?”.

Trong thòi kỳ phục hưng (vào những năm 1419-1699) giáo hội bị sa ngã trầm trọng và Thiên Chúa đã sai nhiều ngôn sứ hùng mạnh đến và qua họ Ngài đã chữa lành như: thánh Têrêsa Avila, thánh Ignatio Loyola, thánh Gioan thánh giá, thánh Rosa de Lima, thánh Piô thứ 10 v.v… Các vị thánh đó đã gây nên phong trào nâng đỡ đức tin mới trong thời đó. Vậy bây giờ Thiên Chúa sẽ làm gì trong thời đại này trong lúc chúng ta đang bị lưu đày theo cách sống mới này? Có thể Thiên Chúa sẽ nói qua các vị lãnh đạo giáo hội chúng ta hay không? Hãy hy vọng, mặc dù có vài vị lãnh đạo trong giáo hội đã làm chúng ta bất mãn nhiều. Chúng ta nên chú ý đến giáo dân để đem ơn sũng, sự hăng say và phục vụ của họ cho chúng ta. Nhưng chúng ta cũng lắng nghe những lời ngôn sứ của Thiên Chúa và nói lên sự hiện diện của Ngài ở giữa chúng ta.

Chúng ta phải thừa nhận rằng chúng ta đã không để ý đến giáo dân trong quá khứ. Chúng ta, hàng giáo sĩ, đã xem giáo dân như thành phần thứ hai trong giáo hội, đang khi có thể chúng ta đã và đang chấp nhận sự giúp đỡ của giáo dân. Có lẽ chúng ta đã không muốn lắng nghe lời Thiên Chúa nói qua các giáo dân đó. Chúng ta cần lắng nghe và lãnh nhận những món quà mà các giáo dân đã giúp chúng ta qua các tổ chức của giáo hội. Nếu chúng ta chú ý lắng nghe, lời hứa của ngôn sứ Isaia nói với những người bị lưu đày là sẽ một lần nữa được thực hiện giữa chúng ta “Bấy giờ mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò”. Hôm nay, từ nơi lưu đày, chúng ta phải kêu lên Thiên Chúa để Ngài thưc hiện những lời hứa đó.

Trong câu chuyện Thiên Chúa chữa người điếc trong phúc âm, thánh Máccô rỏ ràng muốn liên kết sứ vụ của mình với lời ngôn sứ Isaia. Sứ vụ của Đấng Mêssia mà ngôn sứ Isaia loan báo đã được thực hiện qua Chúa Giêsu. Ngài cho người điếc nghe, người mù lòa được trông thấy, và người què được đi lại. Hy vọng của những người bị lưu đày đã được thực hiện qua Chúa Giêsu. Thiên Chúa đã làm điều mà người phàm không thể làm được. Những lúc “bấy giờ” không còn là hy vọng trong tương lai, mà chính là sự thật.

Một người bạn đã bị tai không nghe được trong nhiều năm, vừa qua, anh đã nhận được máy trợ thính. Đó là một trong những máy được làm theo công nghệ tối tân, và gần như vô hình khi gắn kết vào trong tai. Người bạn đó cho là một phép lạ. Bây giờ anh ta nghe được tiếng nói thoang thoảng của đứa cháu gái 3 tuổi của anh. Và anh ta cũng nghe được tiếng của người vợ nói trong phòng bên cạnh. Vói sự vui mừng của gía đình, anh ta không còn phải mở ti vi có âm thanh cao quá. Thử hỏi nếu anh ta hoàn toàn điếc như người điếc trong phúc âm thì sao? Ông bạn đó làm sao có liên hệ mới được, và chỉ những liên hệ cũ của anh ta đã là những điều khó khăn rồi.

Trong phúc âm, lời đầu tiên người điếc nghe là tiếng Chúa Giêsu nói “Êphata” (hãy mở ra). Sau phép lạ đó, người đó không những nghe được mà còn nói được rõ ràng. Chúa Giêsu đang đi trong địa hạt người ngoại, nên có thể người điếc đó là một người ngoại. Có lẽ những người trong đạo Do thái đã xem anh ta là người kẻ ngoại. Khi Chúa Giêsu đến địa hạt đó, Ngài đã gặp sự phản đối của những người Pharisêu và các kinh sư. Các bạn chắc đã nghĩ là các vị lãnh đạo tôn giáo là những người đã biêt lời các ngôn sứ thì họ sẽ nhận ra sứ vụ của Chúa Giêsu chứ gì. Nhưng mặc dù các vị lãnh đạo đó là những người nghe và trông thấy được, thì chính họ là những người điếc và mù lòa với Chúa Giêsu.

Đó là một tin rất quan trọng cho chúng ta, những người có đức tin. Trong khi các vị lãnh đạo tôn giáo sống gần Chúa Giêsu, những người cần được giúp đỡ thì lại không ở gần Ngài. Nhu cầu của họ mở ra với tình thương và sự chữa lành của Chúa Giêsu, Những người què ở ngoài được chữa lành và chính những người ngoài đó lại đón tiếp Chúa Giêsu một cách nồng hậu.

Trong Bí Tích rửa tội, vị linh mục sờ vào tai và miệng người được rửa tội và cầu nguyện rằng: “Xin Chúa mau mở tai cho con được nghe nhận lời Ngài và miệng con được luôn loan truyền đức tin của con để ca ngợi tôn vinh danh Thiên Chúa là Chúa Cha….” Trong khoản khắc đó chúng ta bắt đầu hành trình lắng nghe lời Chúa và thực hành lời Ngài trong đời sống của chúng ta. Giống như người điếc được Chúa Giêsu chữa lành. Tai chúng ta đã được mở ra, và chúng ta nói được rõ ràng. Bằng lời nói và việc làm, chúng ta nói lên được những lời chúng ta đã nghe từ miệng Thiên Chúa.

Hôm nay chúng ta cầu xin cho tâm hồn và lòng trí chúng ta được mở ra nghe lời Chúa Giêsu như Ngài đang nói với chúng ta trong Kinh Thánh, và nghe lời của những người xung quanh chúng ta, nhất là lời những người cần được giúp đỡ, và những người yếu đuối. Vậy chúng ta có nghe những nhu cầu của họ không? Nếu không, chúng ta cầu xin Chúa Giêsu nghe cho chúng ta và làm những việc Ngài làm cho người điếc trong phúc âm đó là sờ vào tai chúng ta và nói “Êphata”(hãy mở ra). Rồi cũng như người điếc, chúng ta cũng sẽ nói được rõ ràng và ca ngợi tình thương của Thiên Chúa cho tất cả, nhất là cho nhũng người bé mọn và các người bên lương.

Chuyển ngữ: FX. Trọng Yên, OP

Hãy mở ra

Michel Angelo là một trong những nhà danh hoạ đã để lại nhiều tác phẩm tuyệt vời vì giá trị vượt thời gian đã đành, mà còn vì sự sống động mà ông đã mặc cho những tác phẩm ấy, điển hình là bức tượng Maisen.

Người ta kể lại rằng: Sau khi hoàn thành bức tượng này, ông đã đứng chiêm ngắm một cách say sưa. Và sự sống động của pho tượng đã làm cho ông ngây ngất, đến độ ông đã cầm chiếc búa gõ vào pho tượng và thốt lên: Hãy nói lên đi.

Thực vậy, ngôn ngữ và tiếng nói là phương tiện Chúa trao ban đẻ chúng ta truyền đạt tư tưởng và ước muốn cho người khác, để tạo lấy một sự hiểu biết và cảm thông. Khi chúng ta nói là chúng ta đang sống cùng, và sống với người khác. Sự hiện diện của chúng ta trong xã hội cần phải được biểu lộ bằng tiếng nói. Vì thế những người câm điếc một phần nào đã bị hạn chế trong mối liên hệ với thế giới chung quanh, sự hiện diện của họ dễ bị người khác quên lãng. Họ luôn sống trong thảm trạng cô đơn và lẻ loi.

Tuy nhiên, đáng thương hơn nữa có lẽ là những kẻ thấp cổ bé miệng, những kẻ bị tước đoạt quyền được lên tiếng, quyền được được sống. Để sóng xứng với phẩm giá con người, thì cần phải có tiếng nói. Cũng trong chiều hướng ấy, phép lạ chữa người câm điếc qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, không phải chỉ là một sự chữa lành bệnh tật phần xác, mà còn là một dấu chỉ cho một thực tại cao siêu hơn, đó là sự sống đích thực mà Chúa Giêsu muốn mang lại cho con người. Khi phục hồi cho người câm điếc khả năng nghe và nói, có lẽ Ngài muốn nhắn nhủ chúng ta rằng con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn sống bằng Lời Chúa. Con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá của mình khi biết mở rộng tâm hồn đón nhận lời hằng sống của Chúa.

Cử chỉ của Chúa Giêsu khi chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo Hội lặp lại khi cử hành bí tích Rửa tội. Thực vậy, bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ, trong đó chúng ta được chữa lành với tái sinh trong đời sống mới. Với phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Épphatha, hãy mở ra. Hãy mở rộng đôi tai để lắng nghe tiếng Chúa trong từng biến cố, trong từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng lưỡi để cảm tạ, chúc tụngchúc tụng và loan báo tình thương của Chúa, để nói những lời yêu thương và hoà bình, của cảm thông và tha thứ, nhờ đó chúng ta sẽ trở thành những chứng nhân sống động co Tin Mừng của Chúa giữa lòng cuộc đời.[Mục Lục]

Câm và điếc

Qua việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người câm và điếc, chúng ta cùng suy nghĩ về việc sử dụng đôi tai và miệng lưỡi của mình.

Trước hết là đôi tai. Chúa đã ban cho chúng ta đôi tai để nghe, nhất là nghe những lời cha mẹ thầy cô và những người có trách nhiệm giáo dục chúng ta, để rồi chúng ta sẽ đem ra thực hành những lời khuyên nhủ đó, hầu trở thành những người hữu ích. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải lắng nghe lời Chúa qua việc học hỏi Phúc Âm, qua việc tìm hiểu giáo lý, để sống xứng đáng người con ngoan của Chúa. Thế nhưng tội lỗi cũng thường hay đột nhập vào tâm hồn chúng ta qua đôi tai của mình. Bởi vì có những đôi tai đóng lại không muốn nghe những lời khuyên bảo và khiển trách, thế nhưng lại mở ra để lắng nghe những câu chuyện nhảm nhí do những người bạn xấu thổi vào. Vậy chúng ta thử xét xem mình có như thế hay không?

Tiếp đến là miệng lưỡi. Chúa đã ban cho chúng ta miệng lưỡi để chúng ta thân thưa với Chúa, để cùng với gia đình, chúng ta dâng lên Chúa những lời kinh ban tối và ban sáng, để chúng ta hát những bài thánh ca chúc tụng Chúa, để chúng ta xưng thú tội lỗi nơi toà cáo giải, để chúng ta luôn có những lời nói ôn tồn và thành thực đối với người khác. Trên môi miệng chúng ta phải luôn có những lời lẽ lịch sự, chẳng hạn như hai chữ: Cám ơn. Miệng lưỡi của chúng ta không phải chỉ mở ra đón nhận của ăn phần xác mà còn mở ra để đón nhận của ăn phần hồn, đó là rước lấy Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể. Ước chi chúng ta sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế.

Ngày xưa ở vùng Bretagne, có một em nhỏ đạo đức và thánh thiện. Em chưa biết đọc biết viết nhưng lại rất yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Trong một ngày, nhiều lần em đọc lên lời kinh Ave Maria, kinh Kính Mừng. Ít lâu sau em bị bệnh và chết, nhưng rồi trên mộ em, có một loại huệ mọc lên. Và trên mỗi cánh huệ người ta đều thấy có hai chữa Ave. Người ta từ khắp nơi đến kính viếng và sau cùng đã xây một ngôi thánh đường kính Đức Mẹ trên phần mộ của em nhỏ.

Thế nhưng miệng lưỡi cũng chính là con đường dẫn tới tội lỗi. Thực vậy, có những miệng lưỡi tham ăn tục uống, lúc nào cũng nghĩ đến cái ăn được, lúc nào cũng đòi phần to hơn, tốt hơn và ngon hơn, nếu không được thì vùng vằng và phụng phịu. Chính vì thế chúng ta phải biết làm chủ miệng lưỡi của mình như một câu danh ngôn đã bảo: Người ta ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn, hay như thánh Phaolô đã cảnh cao: Đừng lấy cái bụng của mình làm chúa. Ngoài ra còn có những miệng lưỡi điêu ngoa, xảo trá và gian dối, không tôn trọng sự thật, luôn tìm cách lừa đảo người khác, nói những lời đầy ác ý, hạ nhục uy tín của người khác và tạo nên sự chia rẽ, hay nói những lời tục tĩu làm hoen ố tâm hồn trong trắng của mình. Đồng thời có những cái miệng cái lưỡi bị câm, không biết cầu nguyện và thân thưa cùng Chúa, Không biết nói lời bênh vực đức tin, không biết can ngăn người khác trước những ý đồ đen tối của họ.

Hãy cầu xin Chúa mở tai chúng ta để biết lắng nghe lời Chúa, cũng như mở miệng chúng ta để biết nói về Chúa cho những người chung quanh.[Mục Lục]

Câm và điếc

Tám thế kỷ về trước, tiên tri Isaia đã loan báo một thời đại mới, khi Đấng cứu thế đến, Ngài sẽ canh tân và đổi mới. Sẽ không còn đui mù, câm điếc, bệnh tật. Và phép lạ hôm nay chứng minh thời gian cứu độ đã đến, và Đức Kitô chính là Đấng giải phóng thiên hạ đợi trông, bởi vì Ngài đã thực hiện lời tiên tri Isaia: Cho kẻ mù được thấy, kẻ điếc được nghe, người câm nói được và người què quặt được nhảy như nai.

Thế nhưng Chúa Giêsu không phải chỉ chữa lành những tật bệnh phần xác, điều quan trọng là Ngài chữa lành những tật bệnh phần hồn. Ngày hôm nay, qua Giáo Hội Ngài vẫn tiếp tục mở mắt mở tai cho một nhân loại câm điếc đối với lời Chúa, đối với Tin Mừng Phúc Âm.

Chúa Giêsu đem người câm điếc ra một nơi và Ngài chữa lành cho anh ta. Với chúng ta, Ngài cũng chăm sóc đến mọi người như thế, Ngài lo lắng cho mọi người như người mẹ lo lắng cho con mình. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời chúng ta trong bàn tay quyền năng và đầy tình thương xót của Ngài. Đồng thời chúng ta hãy kêu cầu Ngài: Lạy Chúa, xin mở miệng con để con không nói lời vu khống, phạm thượng, nhưng để ca ngợi Thiên Chúa và xây dựng tình bác ái huynh đệ.

Ngày xưa, khi lãnh nhận bí tích Rửa Tội, vị linh mục đã diễn lại động tác của Chúa, khi ngài đặt tay trên tai và trên miệng chúng ta rồi bảo: Ephata, nghĩa là hãy mở ra, để chúng ta biết lắng nghe lời Chúa và biết tuyên xưng những kỳ công của Ngài. Khi lãnh nhận bí tích Thêm Sức, Chúa Thánh Thần tăng cười nghị lực để chúng ta có đủ can đảm làm chứng cho đức tin.

Thế nhưng chúng ta đã sử dụng miệng lưỡi chúng ta như thế nào? Một giáo dân đã phải đau khổ thốt lên: Có những người cho đến cuối đời đã chẳng mở miệng nói về Chúa Giêsu cho một ai, ngay cả cho những người muốn tìm hiểu về Ngài. Chúng ta đã thua những người quảng cáo hàng hoá trên vỉa hè thành phố và những em bé bán báo, cũng như những người cổ động cho một nhân vật chính trị hay một thiên đàng trần thế.

Chúng ta hãy có can đảm như Bazin, một tiểu thuyết gia, trong một bài diễn văn đọc giữa hàn lâm nước Pháp, đã long trọng tuyên xưng đức tin của mình như sau: Với triệu triệu sinh linh, tôi sung sướng và tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa.

Tuy nhiên trước khi nói với người khác về Chúa, thì trong âm thầm chúng ta phải biết lắng nghe tiếng Chúa, qua những giây phút tâm sự và cầu nguyện, vì chúng ta chỉ có thể cho cái chúng ta đã có, chúng ta chỉ có thể nói về những cái chúng ta đã biết và đã kinh nghiệm. Chính vì thế mà Đức Thánh Cha Phaolô VI đã tuyên bố: Nếu không có một đời sống cầu nguyện sâu xa, làm sao người công giáo, giữa muôn vàn tiếng nói ô hợp của thế giới, có thể lớn tiếng ca ngợi Thiên Chúa, làm cho mọi người phải xao xuyến và được cứu rỗi. Và hơn nữa, thế giới đang mong đợi nơi chúng ta một thứ ngôn ngữ được diễn tả bằng hành động, tức là một đời sống trong sạch và ngay thẳng, một đời sống đạo đức và thánh thiện, một đời sống bác ái và yêu thương.

Bởi vì đời sống gương mẫu của chúng ta cũng chính là một tiếng nói hùng hồn nhất để giới thiệu Đức Kitô cho những người chung quanh.[Mục Lục]

Đức Giêsu- Dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện

(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

Đức Giêsu xuất hiện ở đâu, thì mang niềm vui và bình an cho những người “thiện tâm” ở đó. Ngài là biểu tượng của tình yêu và là chứng từ cho thấy con người là một giá trị tuyệt đối. Ngài cũng là Đấng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Vời.

I. Đức Giêsu- niềm vui và hy vọng của người đương thời

Sau khi Đức Giêsu chữa người câm điếc bằng cách kéo anh ta ra khỏi đám đông, đặt tay vào tai anh, và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, thì dân chúng khen Đức Giêsu: “Người làm mọi sự tốt đẹp”. Danh tiếng Đức Giêsu được loan ra cho dù Ngài không muốn người ta biết Ngài đã làm sự lạ cả thể này. Qua cách chữa người câm điếc này, người ta có cảm tưởng Đức Giêsu đã làm phép lạ thật “vất vả”. Ngài đã phải đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng của Ngài vào lưỡi anh ta. Dường như Ngài nghĩ rằng sự đụng chạm của thân xác Ngài, sẽ giúp người khác được biến đổi, được chữa lành.

Qua Đức Giêsu, người ta nhận ra Thiên Chúa đang hiện diện với con người. Nơi nào Đức Giêsu hiện diện, người ta tìm thấy lòng thương xót, chữa lành, niềm vui, và chiến thắng sự dữ. Cái chết của Đức Giêsu, và cũng vậy, cái chết của các thánh tử đạo, cho thấy sự dữ đã thất bại. Người ta tìm cách hủy diệt hay giết người khác, bởi vì người ta thua người đó. Khi kẻ dữ muốn hủy diệt người công chính, là họ thấy họ không thể thắng người công chính, và hơn nữa, họ thấy họ bị thua. Cain giết Abel, vì thấy người em hơn mình; Cain không muốn người em hơn mình, nhưng anh ta đã không thể tốt hơn Abel. Hêrôđiađê giết Yoan Tẩy Giả, vì nếu để ông sống, bà không thể làm điều bà muốn: lấy Hêrôđê làm chồng.

Đức Giêsu, con người nghèo hèn khiêm tốn, nhưng là niềm vui và hy vọng của con người thời đó. Ngài rảo khắp đất nước Do Thái, để loan tin mừng Nước Thiên Chúa. Ngài là Thiên Chúa hiện diện với con người. Ngài cần rảo khắp đất nước Do Thái, để con người thời đó được nhìn thấy Thiên Chúa “hữu hình” hiện diện. Ngài là ân sủng cho những người được gặp gỡ Ngài. Có thể những người thời đó không nhận ra ân sủng và tình yêu đang viếng thăm họ, đang hiện diện với họ, nhưng thực sự là Thiên Chúa đang hiện diện với con người một cách rất cụ thể, con người có thể nhìn thấy và đụng chạm tới Thiên Chúa được.

II. Đừng thiên vị nhưng hãy tôn trọng mọi người vì họ là người

Con người của mọi thời đại vẫn “trọng phú khinh bần”. Người giầu luôn được người ta kính trọng, còn người nghèo thường bị khinh dể. Đây là cách cư xử của người “đời”. Nếu một người tin vào Đức Giêsu, mà còn cư xử như người “đời”, thì liệu họ có niềm tin vào Đức Giêsu một cách thực sự không! Thư thánh Giacôbê cho thấy cách cư xử của người tin vào Đức Giêsu phải khác với cách cư xử của người “đời”. Những người tin vào Đức Giêsu, phải nhận ra giá trị đích thực của con người không hệ tại nơi của cải, nhưng hệ tại họ là người.

Mỗi người, là một giá trị tuyệt đối đối với Thiên Chúa và ngay cả đối với con người. Giầu sang không có giá trị gì khi đem so với giá trị của một con người. Niềm tin Đức Giêsu là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể, cho người ta thấy con người có giá trị như thế nào trước Thiên Chúa. Vì nếu không có giá trị cao quý, tại sao Thiên Chúa đã vĩnh viễn làm người, tại sao Thiên Chúa phải chấp nhận sinh ra và sống nghèo hèn như thế, tại sao Ngài phải chấp nhận cái chết đau đớn và nhục nhã trên thập giá. Với Kitô giáo, nhờ biến cố Lời Thiên Chúa nhập thể, con người nhận ra giá trị tuyệt vời của con người. Con người là một giá trị tuyệt đối chỉ sau Thiên Chúa.

Đối xử với con người, là đối xử với Thiên Chúa. Thiên tư tây vị, trọng phú khinh bần, trọng người giầu khinh người nghèo, là coi trọng vật chất hơn con người. Đây là cách đối xử sai lầm của nhiều người. Thiên Chúa không đối xử như vậy; người của Thiên Chúa cũng không đối xử như vậy. Nếu người nào trọng người giầu và khinh người nghèo, là người đó đang có “vấn đề”. Đối xử như vậy, là dấu chỉ cho thấy người đó chưa là một với Thiên Chúa, chưa hiểu biết và chưa sống theo Thiên Chúa thật sự.

III. Thiên Chúa- Đấng Tuyệt Vời

Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa, nghĩa là, Ngài tạo dựng con người biết yêu thương, cho con người có lý trí để làm chủ vũ trụ thiên nhiên. Con người được mời gọi để làm thế giới này trở nên đẹp hơn, nơi con người biết sống cho người khác, biết phục vụ và giúp người khác; và như vậy con người sẽ sống hạnh phúc. Yêu thương không là một điều gì đã hoàn toàn thể hiện, nhưng là chính con người với tất cả cuộc sống của mình. Con người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa bằng tất cả đời sống của mình, từng giây từng phút của cuộc sống mình.

Khi con người không yêu thương, không yêu thương Thiên Chúa và không yêu thương anh chị em mình, thì bầu khí không còn là bầu khí tin tưởng lẫn nhau. Lúc đó không có hạnh phúc nữa. Lúc này, con người là một mối đe dọa cho nhau. Thiên Chúa lại tiếp tục có sáng kiến mới để làm con người trở lại với Thiên Chúa, để con người sống yêu thương và sống hạnh phúc. Sáng kiến của Thiên Chúa đạt tới tuyệt đỉnh nơi Đức Giêsu Kitô, và điều này vẫn còn được tiếp tục trong dòng lịch sử, nơi cuộc đời của mỗi con người. Thiên Chúa vẫn đang mời gọi, và làm con người sống yêu thương từng ngày trong cuộc sống mỗi người.

Đức Giêsu là Đấng sống yêu thương con người. Nhiều người được mời gọi để trở thành dấu chỉ Thiên Chúa hiện diện và yêu thương con người hôm nay. Hành vi cứu độ là hành vi đang thực hiện, đang hoàn tất. Công cuộc này sẽ hoàn tất vào ngày cánh chung, ngày Con Người vinh quang ngự đến để xét xử địa cầu, để làm tất cả nên hoàn hảo, để làm tất cả đạt tới tầm mức tuyệt vời của nó trong chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa thật là Đấng Tuyệt Vời trong hành vi sáng tạo và liên tục làm người ta sống yêu thương qua Đức Giêsu và trong Thánh Thần Tình Yêu của Ngài.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Thiên Chúa là ai, với bạn?
  2. Đức Giêsu mang gì lại cho bạn?
  3. Làm gì để môi trường bạn sống tin tưởng nhau hơn và hạnh phúc hơn?[Mục Lục]

Thiên Chúa vẫn ở bên tôi

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một câu chuyện vui kể về một tín đồ rất ngoan đạo, bị kẹt trong một cơn lũ lụt mà nước mỗi lúc một dâng cao. Anh ta từ chối việc di tản. Anh nhất quyết phải chứng minh rằng Thiên Chúa sẽ giải cứu anh.

Nước lụt mỗi lúc lại dâng cao hơn, và người ấy đến lúc đã bị kẹt trên mái nhà mình, đang cầu nguyện xin Chúa một phép lạ. Ba lần người ta dùng thuyền tới cứu, song anh không chịu lên thuyền, bảo họ hãy đi đi. Anh quyết bám vào mái nhà để chờ phép lạ của Chúa. Cuối cùng anh bị nước cuốn đi và bị chết chìm. Khi ra trình diện tại cửa thiên đàng, anh ta phẫn nộ thưa với Chúa:

– Lạy Chúa, vì sao Ngài không tôn trọng đức tin của con?

Chúa trả lời:

– Ta đã ba lần đưa thuyền đến cứu con, nhưng con đã không chịu bước vào!

Vâng, Thiên Chúa luôn cứu giúp chúng ta qua trung gian con người là hình ảnh của Chúa. Ngài vẫn luôn thể hiện tình thương của Ngài qua tha nhân, qua bạn bè. Đó là lý do mà Ngài tao dựng con người theo hình ảnh của Ba Ngôi Thiên Chúa. Ba Ngôi vị liên kết với nhau thành một cộng đoàn tình yêu. Con người cũng được mời gọi liên kết với nhau trong một cộng đoàn của yêu thương và hiệp nhất. Sự liên đới, chia sẻ với nhau đó chính là dấu chỉ sự hiện diện của Chúa giữa thế gian.

Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Sinh ra trong tật nguyền là một thiệt thòi mà chẳng ai mong muốn điều đó xảy đến với mình. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.

Nét đẹp của bài phúc âm hôm nay quan yếu là ở tấm lòng những người thân và tình thương của Chúa. Anh sinh ra trong tật nguyền nhưng anh lại được mọi người thương mến, cảm thông với nỗi bất hạnh của anh. Cha mẹ và hàng xóm láng giềng đều mong muốn cho anh có ngày nói được, có ngày nghe được như bao người khác. Họ đã nghe về một Giêsu quê làng Nagiaret đầy tình thương và đầy quyền năng. Một vị cứu tinh của nhân trần có thể sẽ giải thoát và cứu chữa anh khỏi tật nguyền. Họ đã đem anh đến với Chúa. Sự nỗ lực của mọi người đã được Chúa Giêsu bù đắp bằng sự đáp ứng nguyện vọng của họ và chữa lành cho anh.

Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Câm điếc về thể xác đã khổ, câm điếc tâm hồn lại còn khổ hơn. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ đang chôn vùi cuộc đời trong đam mê lầm lạc. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.

Biết bao người vì những đam mê, những dục vọng, những toan tính, những ích kỷ, những lười biếng trói buộc cuộc đời của họ trở thành kẻ tật nguyền đáng tội. Biết bao người đã trở thành câm điếc lương tri, vì ngay từ nhỏ đã không được cha mẹ khai trí mở lòng bằng những lời dạy bảo, những lời hay lẽ phải. Họ không được huấn luyện để nói những lời yêu thương, để lắng nghe tiếng nói của sự thật. Dần dà với thời gian môi miệng của họ không còn khả năng nói lời yêu thương, chân thành đối với tha nhân. Dần dà với thời gian con tim của họ không còn có khả năng để nghe và cảm thông nỗi đau khổ, bất hạnh của anh em. Thay vào đó là những lời độc ác, hận thù, gian dối, và với một trái tim chai cứng, thờ ơ, lãnh đạm với nỗi khổ của anh em. Sự câm điếc tâm hồn khiến họ không còn khả năng để yêu thương, để trao ban và chia sẻ với nỗi bất hạnh của người khác. Điều tệ hại nhất là họ không còn nghe được tiếng nói của lương tâm luôn nhắc nhở họ từ bỏ lối sống u mê, tội lỗi để sống theo lẽ phải, theo lề luật của Thiên Chúa. Họ thật đáng thương vì họ sống trong lầm lạc mà họ không biết. Họ thật bất hạnh vì họ thiếu đi những cảm giác vui tươi, an bình của tâm hồn.

Đôi khi trong cuộc đời chúng ta cũng trở nên kẻ câm điếc giữa tha nhân. Có thể vì thói ích kỷ mà chúng ta làm ngơ trước nỗi khổ của anh em. Có thể vì đam mê và lười biếng chúng ta làm ngơ trước tiếng nói của lương tri.

Nguyện xin Chúa là Đấng đã đến để phục hồi những gì đã bị hủy hoại bởi tội lỗi, xin Người giúp chúng ta biết lắng nghe tiếng nói của sự thật và biết sống yêu thương với mọi người. Xin Người ban cho chúng ta một tấm lòng quảng đại để chúng ta biết giúp đỡ anh chị em vượt qua những giới hạn và yếu đuối của bản thân để sống hoàn thiện con người mình mỗi ngày nên tốt hơn. Amen. [Mục Lục]

Hãy mở lòng ra

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Cuộc sống vốn vồn vã với cơm áo gạo tiền. Con người cứ lao vào cuộc chiến để dành phần thắng cho mình. Dường như họ đã quên đồng loại hay cố tình bỏ rơi đồng loại để chỉ lo cho mình. Con người đi vào vòng xoáy danh lợi thú tựa như nhiều vòng tròn mà chẳng bao giờ gặp nhau.

Đọc bài Tin Mừng hôm nay khiến tôi nghĩ đến căn bệnh của rất nhiều người, nhất là những người sống trong xã hội ích kỷ ngày nay, đó là căn bệnh “đóng cửa”, đóng mắt, đóng tai, đóng tay, đóng lòng. Căn bệnh khiến người ta sống bên cạnh nhau mà không hề để ý tới nhau và quan tâm cho nhau. Căn bệnh có tên là “Macke no” đã khiến con người kinh tởm và xa rời nhau. Họ giả điếc làm ngơ trước nỗi thống khổ của anh em.

Xem ra con người ngày nay cần được Chúa Giê-su chữa trị. Cần được Chúa mở tai để nghe những nỗi khổ của tha nhân. Cần được mở miệng để nói những lời yêu thương. Cần được Chúa nói vào trong tâm hồn “Hãy mở ra” để mở tấm lòng yêu thương mà đến với tha nhân.

Phải, cần phải mở tấm lòng để sống không phải vì mình mà phải vì tha nhân. Vì mình chúng ta sẽ ích kỷ và bỏ rơi đồng loại. Vì tha nhân chúng ta sẽ sống có ích cho đời. Xã hội sẽ đẹp biết bao nếu ai cũng biết sống mình vì mọi người nhưng không bao giờ đòi mọi người vì mình.

Tiếc thay, con người lại thích sống trong vỏ ốc ích kỷ hơn là ra khỏi chính mình. Bằng chứng cho lối sống ích kỷ và mackeno là việc phá thai. Người ta ước tình rằng: mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 2 triệu ca nạo phá thai. Thật không gì nhẫn tâm khi phải chứng kiến những em bé bị cắt thành nhiều mảnh rồi lôi ra khỏi lòng mẹ. Còn đâu nữa ‘lòng mẹ bao la như biển Thái Bình’, còn đâu nữa ‘Lương y như từ mẫu”, vì bây giờ thai nhi được xem là cục nợ – là kẻ thù mình phải nhanh tay trừ khử, để trốn được trách nhiệm về sự buông thả của mình và bác sỹ thì có thêm thu nhập. Người ta nhận định ‘tệ nạn phá thai là sự phá sản của lương tâm’, vì tình mẫu tử rất thiêng liêng mà nay cũng không còn – mạng sống con người không được tôn trọng thì sự vô cảm với tha nhân quanh ta là điều tất yếu.

Đây là vấn đề thuộc về giáo dục phải khởi từ gia đình là trường học đầu tiên phải dạy cho con ý thức sống chung với đồng loại. Gia đình đừng dậy cho con trẻ sống chỉ biết mình, mà phải biết sống có ích với xã hội loài người. Gia đình phải giúp con trẻ sống có ích cho đồng loại. Rất mong mỗi gia đình biết giáo dục các thành viên biết nhường nhịn và tôn trọng nhau, có vậy ‘nó’ mới biết tôn trọng người khác khi ra xã hội và mới hạnh phúc khi lập gia đình hay tu trì. Thật đáng sợ khi xã hội nào đó đào tạo ra một lớp người chỉ biết sống theo chủ nghĩa ‘mackeno’. Lòng hào hiệp và sự vô cảm là hai mặt của ‘một đồng tiền’ lương tâm, hãy cảnh giác sự biến thái đạo đức xảy ra ngay trong lòng mình và môi trường sống quanh ta. Đừng để cho chuỗi tình thương ta nhận được từ Đấng Tạo Hóa và từ cuộc đời nầy kết thúc nơi bản thân mình.

Xin Chúa phục hồi và chữa trị thói ích kỷ hẹp hòi nơi mỗi người chúng ta. Xin cho chúng ta biết cởi mở lòng mình ra với thế giới để yêu thương và chia sẻ với mọi người đang khó khăn quanh ta. Amen. [Mục Lục]

Giải thoát – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Sứ vụ giảng dậy của tiên tri Isaia tại Giêrusalem vào khoảng năm 742-701 trước Công Nguyên, dưới thời các vua Giuđêa là Uzziah, Jotham, Ahaz và Hezekiah. Isaia đã nói tiên tri về Đấng sẽ đến và giải thoát con dân khỏi sự cùng khổ. Một niềm hy vọng bừng sáng lên cho những ai biết đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em” (Is 35, 4). Tiên tri đã loan báo ơn cứu độ sẽ đến như suối nước chảy vào nơi đồng vắng, tràn ngập vào hoang địa khô cằn và lòng người hoan hỉ được chữa khỏi bệnh hoạn tật nguyền. Họ sẽ được nghe loan báo tin mừng giải thoát khỏi sầu khổ, tội lỗi và sự ràng buộc của ma quỷ.

Isaia nhìn thấy những khổ đau chất chồng trong đời sống của cộng đồng và cá nhân. Những hoang mang xao xuyến, lo lắng sầu muộn và những khiếm khuyết của cá nhân như mù, què và câm điếc. Thiên Chúa sẽ quan tâm chữa lành cho từng người: Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được (Is 35, 5). Những khuyết tật của con người như những cửa ngõ để lãnh nhận lòng thương xót của Chúa. Chúng ta thường không lo lắng chi, khi đang sống an vui khỏe mạnh. Chỉ lúc đau yếu, bệnh hoạn, khiếm khuyết, chúng ta mới cảm nhận được những ân phước may mắn đã lãnh nhận. Khi đau yếu bệnh hoạn chúng ta mới trân qúi sức khỏe. Khi mắt mờ hay mù lòa mới nhận ra hồng ân ánh sáng. Khi tai bị nghễnh ngãng hay câm điếc mới tiếc nuối âm thanh giao tiếp.

Đấng Cứu Thế đến mang lại niềm vui mừng và hy vọng chan hòa cho mọi người đang lữ hành trong đêm tối thế trần. Bài phúc âm hôm nay kể câu truyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc bằng cách đặt ngón tay vào tai và bôi nước miếng vào lưỡi anh ta. Đoạn Ngài cầu nguyện và bảo “hãy mở ra”, tức thì tai anh ta mở ra và lưỡi nói được. Hành động của Chúa Giêsu xem ra thật dễ dàng. Chúa không cần đến thuốc thang và thời gian chữa lành. Với ý muốn, Chúa dùng quyền năng biến đổi và chữa lành ngay lập tức. Đây là phép lạ. Ứng nghiệm lời tiên tri Isaia đã loan báo từ xưa là Người sẽ đến mở miệng người câm và mở tai người điếc. Chúng ta nhận biết rằng Chúa Giêsu có thể chữa lành qua ý muốn, cử chỉ, hành động của Ngài và nhờ qua chính đức tin của bệnh nhân.

Bất cứ một sự khiếm khuyết nào trong thân xác cũng gây nỗi phiền muộn ám ảnh cả tinh thần lẫn thể xác. Nếu chúng ta có dịp vào các Trung Tâm Khuyết Tật, chúng ta sẽ nhìn thấy có muôn vàn chứng bệnh khác nhau. Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Đạo Phật gọi là Nghiệp. Chúng ta xem đây như là số phận đã an bài. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.

Những người bị khuyết tật rất cần sự giúp đỡ và thông cảm của những người chung quanh. Họ không thể di chuyển nhanh, không nhìn thấy cảnh vật xung quanh, không nghe thấy âm thanh tiếng nói và không thể giãi bày tư tưởng cảm thông. Họ bị đóng kín, bị giới hạn và bị thiệt thòi đủ thứ. Nhiều người khuyết tật và tàn tật đã phải đi xin ăn hay sống tựa dựa vào lòng bác ái của người khác hay các cơ quan từ thiện. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều anh chị em dù bị khiếm khuyết nhưng đã phấn đấu vượt lên trên số mệnh. Nhiều người đã thành công để tự đứng trên chính đôi chân của mình. Trong khi có rất nhiều người lành lạnh, có khả năng, có tiền bạc và có sức khỏe nhưng lại lười biếng và lạm dụng ăn bám vào xã hội.

Tôi có quen biết một ông bị mù cả hai mắt mà rất linh hoạt trong cộng đoàn. Ông đã làm việc nhiều hơn những người bình thường. Để có tiền tiêu pha trong gia đình và giúp đỡ việc bác ái, ông làm nghề nấu rượu. Ông tự làm men, nấu cơm, ủ cơm lên men, nấu rượu và pha chế rượu. Ông còn chế rượu ngâm thuốc bắc và các loại rượu bóp dẹo để bán và để tặng. Đôi khi ông ấy còn làm đồ nhắm rất tuyệt vời đãi bạn bè với rượu đế và thịt nai đồng quê nữa. Có những người bị sút lưng, trật gân hay trẹo tay chân đều tìm đến ông để được xoa bóp và chữa trị. Tuy không nhìn thấy nhưng đôi tay và đôi tai rất bén nhậy. Ông rất nhiệt tình trong việc nuôi dưỡng ơn gọi linh mục như giúp đỡ tiền bạc và nhận đỡ đầu các chủng sinh. Lập hội bác ái giúp người nghèo khổ, phong cùi và các trẻ mồ côi ở Việt Nam. Không quản ngại mưa nắng và gió tuyết lạnh lẽo, ông trung thành trong việc đưa rước tượng Đức Mẹ Maria tới từng gia đình trong cộng đoàn quanh năm suốt tháng. Được biết trong thời gian mới nhập cư tại Hoa Kỳ, ông là người cộng tác đắc lực của linh mục quản nhiệm, là cố vấn và là giáo lý viên đặc biệt dạy tất cả các lớp giáo lý cho các em từ lớp vỡ lòng, xưng tội, rước lễ lần đầu, Thêm Sức, Tân tòng và cả Hôn Phối. Nghĩ rằng ít có ai chạy theo cho kịp những sinh hoạt và nhân đức tốt lành của ông. Nay ông đã về yên nghỉ bên Chúa.

Chúa Giêsu thương yêu và cảm thông những khiếm khuyết của họ. Bất cứ người tàn tật nào đến van xin, Chúa đều chữa lành. Dân chúng đã nhận ra dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ: Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” (Mc 7, 37). Qua sự chữa lành phần xác, Chúa đưa dẫn họ đến sự chữa lành tâm hồn. Đây là mùa hồng ân, Đấng Cứu Thế xuất hiện rao giảng và làm các phép lạ chỉ trong vòng thời gian rất ngắn. Chúa không xuống thế chỉ để làm phép lạ hóa bánh nuôi dân hay chữa lành các loại bệnh hoạn tật nguyền, nhưng Chúa đến mang tin vui giải thoát. Giải thoát tâm hồn con người khỏi những ràng buộc của sự dữ và tội lỗi. Chúa mở con đường cứu độ qua sự đau khổ, sự tha thứ và yêu thương. Tất cả những khổ đau ở đời là những nấc thang đưa dẫn chúng ta đến gần Chúa hơn. Chấp nhận đau khổ như những thánh giá vác mang đi theo Chúa:Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được (Lc 14, 27).

Thánh Giacôbê khuyên dạy chúng ta đừng thiên vị khi xét xử anh chị em. Chúng ta thường chú ý và đánh giá người khác qua diện mạo bề ngoài. Điều này dễ bị lầm lẫn: Anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: “Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này”, còn với người nghèo, anh em lại nói: “Đứng đó! “ hoặc: “Ngồi dưới bệ chân tôi đây! (Giac 2, 3).Con mắt phàm trần dễ đưa đến những phán đoán sai lạc. Có những sự việc xảy ra ngay trước mắt nhưng chúng ta cũng chẳng nhận ra. Không phải chúng ta có mắt sáng là có thể nhìn biết mọi sự. Chỉ có con mắt tâm linh mới nhìn thấy thấu tỏ và quán chiếu mọi sự. Kho tàng cao qúy của con người nằm ở trong tâm. Chúa Giêsu chữa lành mắt cho người mù, khi được sáng mắt cả thể xác và tâm hồn, anh đã nhận biết Chúa.

Lạy Chúa, xin Chúa mở mắt tâm hồn để chúng con được nhìn, được nghe và được biết rõ hơn. Cho chúng con biết cảm thông những nỗi bất hạnh, những đớn đau và những muộn phiền của những anh chị em chung quanh. Chúng con dâng lời cảm tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thân xác đầy đủ vẹn toàn. Xin cho chúng con biết dùng tất cả ngũ quan và các khả năng đặc thù để phục vụ Chúa và anh chi em. Chúng con xin phó thác cuộc đời trong tay Chúa, xin Chúa chúc lành và giải thoát chúng con. [Mục Lục]