Chúa nhật Lễ Đức Mẹ Mân Côi: Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa

754 lượt xem 6 Tháng Mười, 2018

CHÚA NHẬT LỄ ĐỨC MẸ MÂN CÔI
Các bài suy niệm & chú giải Lời Chúa

Lời Chúa: Cv 1,12-14; Gl 4,4-7; Lc 1,26-38.

Mục Lục

    1. Hành Trình Đức Tin Của Đức Maria- ĐGM Giuse Ngô Quang Kiệt
    2. Kinh Mân Côi – Lời Kinh Kỳ Diệu- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống
    3. Cầu Nguyện Bằng Chuỗi Mân Côi- ĐGM G.B Bùi Tuần
    4. Hoa Mân Côi – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên
    5. Sứ Điệp Về Đức Maria- Lm. Ignatio Hồ Thông
    6. Lời Kinh Tuyệt Vời – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
    7. Phương Thuốc Thần Diệu– Lm. Ignatio Trần Ngà
    8. Maria Thật Diệu Hiền- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR
    9. Cầu Nguyện Và Cải Thiện Đời Sống- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
    10. Kinh Mân Côi, Những Viên Ngọc Quí- Trích Logos năm C
    11. Kinh Kính Mừng, Lời Kinh Cầu Cho Hòa Bình- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
    12. Lời Kinh Đem Lại Hòa Bình- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn

 

1. Hành Trình Đức Tin Của Đức Maria- ĐGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Khi nhìn ngắm các tượng ảnh Đức Mẹ, ta dễ có cảm tưởng rằng Đức Mẹ đã sống một đời bình an thư thái. Vì các nghệ nhân thường tạo ra những hình ảnh về Đức Mẹ đẹp đẽ, hiền từ, dường như siêu thoát mọi cảnh khổ đau ở trần gian. Khi ngợi ca Đức Mẹ là tuyệt mỹ, đầy ơn phúc, vô nhiễm nguyên tội, ta thường nghĩ rằng: Đức Mẹ đã được tạo dựng đặc biệt, hoàn hảo ngay từ đầu, thánh thiện từ khi sinh ra và mãi mãi là như thế, không tiến, không lùi, đẹp như một pho tượng đúc sẵn.

Nhưng nếu đọc Phúc Âm kỹ lưỡng, ta sẽ thấy hành trình đức tin của Mẹ không phải luôn luôn bằng phẳng, êm xuôi, dễ dàng. Vì yêu thương, Thiên Chúa đã thanh luyện Mẹ, uốn nắn Mẹ. Và vì thế đã để Mẹ trải qua những kinh nghiệm đớn đau khi tin nhận và bước theo Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ nhất: Thiên Chúa mời gọi Mẹ bỏ chương trình riêng để sống theo chương trình của Thiên Chúa. Maria, một thôn nữ bình dị sống thầm lặng trong một làng quê nhỏ bé. Cô muốn cuộc đời mãi mãi bình thản êm xuôi như thế. Nhưng Thiên Chúa đã đến khuấy động đời cô. Khi đề nghị Maria làm mẹ, Thiên Chúa đã mở ra trước mặt cô một lý tưởng cao đẹp, nhưng cũng đầy gian khổ chông gai. Maria đã ngoan ngoãn thưa “Xin vâng”. Lời thưa ‘xin vâng’ của Maria làm ta nhớ đến tổ phụ Abraham. Như Abraham đã từ bỏ quê hương, gia đình đi vào một tương lai bấp bênh theo tiếng Chúa mời gọi, Maria cũng đã từ bỏ chương trình riêng trong nếp sống bình dị, để đi vào chương trình của Thiên Chúa trong một tương lai bất ổn, hoàn toàn phó thác vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ hai: Thiên Chúa gửi đến cho Đức Mẹ nhiều đau khổ. Vì nhận lời làm Mẹ Đấng Cứu Thế, Đức Maria phải gánh chịu nhiều đau khổ.

Đau khổ thứ nhất là bị Giuse nghi ngờ. Làm sao giải thích cho Giuse hiểu. Làm sao tránh được búa rìu dư luận. Không những bị nghi ngờ, mà còn nguy hiểm đến tính mạng nữa. Thời ấy, những cô gái chửa hoang sẽ bị ném đá cho đến chết. Nhưng vững tin vào Thiên Chúa, Đức Maria đã để mặc Thiên Chúa lo liệu dàn xếp mọi chuyện. Ngài chỉ biết cúi đầu, thinh lặng vâng phục và phó thác.

Đau khổ thứ hai là Đức Maria đã sinh hạ Chúa Giêsu trong cảnh cơ bần: không nhà cửa, không giường chiếu, không mùng mền. Thiếu thốn mọi phương tiện. Chung số phận với súc vật.

Đau khổ thứ ba là bị vua Hêrôđê tìm giết nên phải trốn sang Ai Cập. Con trẻ sơ sinh yếu ớt. Sản phụ chưa được nghỉ ngơi lại sức đã phải đi lên đường trốn chạy. Tuy nhiên, nỗi cực nhọc phần xác không sánh được với nỗi đau đớn trong tâm hồn: Tại sao lại mang lấy thân phận tội đồ? Tại sao lại bị người đời thù ghét, săn đuổi?

Đối diện với những đau đớn ấy, chắc chắn niềm tin của Đức Maria phải lung lay, nghi hoặc: Con Thiên Chúa mà phải chịu nghèo khổ, khốn cùng đến thế sao? Tuy có chao đảo, nhưng Đức Maria vẫn phó thác và tin tưởng vào Thiên Chúa.

Cuộc thanh luyện thứ ba: Đức Maria bị dứt lìa khỏi Chúa Giêsu. Niềm vui và hạnh phúc của người mẹ là đứa con, nhất là con một. Con là tất cả của mẹ. Con quý giá hơn chính mạng sống của mẹ. Tách con ra khỏi mẹ khác nào lấy gươm đâm vào tim mẹ. Thế mà Chúa Giêsu đã tách lìa Đức Maria rất sớm. Phúc Âm ghi lại hai lần Chúa Giêsu từ chối Đức Mẹ.

Lần thứ nhất: Khi Chúa Giêsu lên 12 tuổi, cả nhà đi lên Giêrusalem dự lễ. Tan lễ, Chúa Giêsu đã tự tiện ở lại, để thánh Giuse và Đức Maria đi tìm mất ba ngày. Trong ba ngày đó, Đức Maria đã trải qua biết bao lo âu, sợ hãi, đau đớn, cực nhọc. Vậy mà khi gặp cha mẹ, Chúa Giêsu đã nói: “Cha mẹ tìm con làm gì. Cha mẹ không biết con phải lo việc cho Cha con ư?”. Lời này khiến cho Đức Maria buồn phiền không ít vì thấy đứa con từ nay thoát khỏi vòng tay của Mẹ.

Lần thứ hai: Khi Chúa Giêsu đi rao giảng, Đức Maria và mấy người bà con đến tìm Chúa Giêsu. Nhưng Chúa Giêsu không ra tiếp, lại còn nói những lời như chối từ liên hệ huyết thống:

“Kẻ nghe lời Cha ta và thực hành, người ấy là anh chị em và là Mẹ ta”.

Những lời nói và thái độ của Chúa Giêsu như thế chắc chắn khiến cho Đức Maria buồn phiền. Nhưng những lời nói và thái độ ấy cũng giúp thanh luyện Đức Maria khỏi những tình cảm riêng tư, những liên hệ sinh học tự nhiên để bước vào tình yêu rộng lớn của Thiên Chúa và tạo lập những dây liên hệ siêu nhiên với Ngài.

Cuộc thanh luyện cuối cùng: Đức Maria phải chứng kiến cái chết nhục nhã của Chúa Giêsu trên thập giá. Còn gì buồn hơn khi mẹ mất con. Còn gì đau đớn hơn khi mẹ thấy con chết đau đớn, tủi nhục giữa tuổi thanh xuân. Ở đây ta cũng nhớ lại tổ phụ Abraham. Để thử thách ông, Thiên Chúa đã truyền cho ông sát tế Isaác, đứa con trai duy nhất. Đức Maria cũng được mời gọi hy sinh người con duy nhất của mình. Đau đớn hơn tổ phụ Abraham vì Đức Maria phải chứng kiến hy lễ đó hoàn tất. Khi mọi người trốn chạy, chối bỏ Chúa Giêsu, Đức Maria vẫn ở lại dưới chân cây thập giá đau nỗi đau của Chúa Giêsu, nhục nỗi nhục của Chúa Giêsu. Và khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng thì Đức Maria như bị mất tất cả, bị tước đoạt tất cả những gì yêu quý nhất. Đứng dưới chân thánh giá, Đức Maria trở nên một người nghèo nhất. Mẹ chẳng còn gì cho riêng mình. Chẳng còn điểm tựa nào để bám víu, Mẹ chỉ còn biết phó thác trông cậy vào Thiên Chúa.

Như vậy Thiên Chúa đã dẫn đưa Đức Maria từ bỏ chương trình riêng tư, từ bỏ chính mình, từ bỏ những gì thân thiết nhất của mình, để đi vào chương trình của Thiên Chúa, để trọn vẹn phó thác cho Thiên Chúa.

Ngày nay khi lần chuỗi Mân Côi là ta ôn lại hành trình đức tin của Mẹ. Hành trình đầy thử thách gian khổ nhưng cũng đầy chiến thắng vinh quang.

Xưa kia lễ Mân Côi được mừng để kỷ niệm cuộc thắng trận ở Lepante. Ngày nay, khi mừng lễ Mân Côi ta mừng Đức Mẹ Maria đã chiến thắng chính bản thân, đã vượt qua hết những thử thách và đạt tới đích điểm của hành trình đức tin.

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Mẹ, biết từ bỏ ý riêng mình để thực hiện ý Thiên Chúa. Xin giúp con can đảm vượt qua mọi thử thách và giữ vững niềm tin tưởng phó thác trong tay Chúa.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Hãy kể ra những cuộc thanh luyện của Đức Mẹ.

2) Tại sao con người phải chịu thanh luyện? Có phải vì Chúa muốn hành hạ con người không?

3) Thanh luyện hệ tại điều gì? Chịu khổ sở hay từ bỏ mình, điều nào quan trọng hơn? [Mục Lục]

2. Kinh Mân Côi – Lời Kinh Kỳ Diệu- ĐGM. Giuse Vũ Duy Thống

Ngày 16 tháng 10 năm 1978, trong lần xuất hiện đầu tiên trước công chúng sau khi đắc cử Giáo Hoàng, Đức Gioan Phaolô II đã ký thác sứ vụ của ngài cho Đức Mẹ Maria và giới thiệu lại Kinh Mân Côi cho toàn thế giới như là “lời kinh diệu kỳ”.

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân Côi”, một lần nữa ngài ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân Côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Vâng, Kinh Mân Côi là kinh phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào, nhưng đâu là nét kỳ diệu của Kinh Mân Côi?

Kinh Mân Côi hệ tại việc gặp gỡ Đức Maria trong tình mẫu tử.

Đành rằng lời kinh nào dâng lên Đức Maria cũng là dâng lên trong tình mẫu tử, như được thể hiện qua truyền thống cầu nguyện Việt Nam, nhất là trong lãnh vực ca nguyện. Cứ thử làm một bảng liệt kê những ca khúc hát dâng Đức Mẹ ắt sẽ rõ. Nhiều lắm. Chỉ những ca khúc bắt đầu bằng chữ “Mẹ ơi” từ nốt bậc năm về nốt bậc một không phân biệt trưởng thứ cũng có thể làm thành một cuốn sưu tập không mỏng. Nhưng vượt lên tất cả, riêng Kinh Mân Côi đã đẩy tình mẫu tử ấy lên một cung bậc diệu kỳ.

Phần đầu Kinh Kính Mừng dựa trên Phúc Âm là lời chào của sứ thần Gabriel phối hợp với lời mừng của bà Êlisabet làm thành lời xưng tụng Đức Maria là Mẹ Chúa Giêsu, Đấng từ trời cao xuống thế làm người. Phần sau Kinh Kính Mừng là lời xin ơn trợ giúp qua đó tín hữu xưng hô Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Và tổng hợp cả hai phần ngắn ngủi đọc lên chỉ trong mười lăm giây đồng hồ là cả một lời kinh kỳ diệu nối kết tâm tình con thảo vào với mầu nhiệm Đức Maria trên đỉnh vị thế là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ con người; Mẹ Chúa Giêsu và Mẹ của mỗi người chúng ta.

Nếu “nải chuối buồng cau, đường mía lau xôi nếp một” là ca dao tình mẹ ngọt ngào trong văn học dân gian Việt Nam, thì Kinh Kính Mừng quả là lời kinh tuyệt diệu ngọt ngào tình mẫu tử thiêng liêng giúp ta gặp được Đức Maria cao xa là Mẹ Chúa Trời nhưng vẫn cứ luôn gần gũi với người dương thế cho dẫu phận người hôm nay không đẹp đẽ gì, vì xét cho cùng chỉ là kẻ có tội “khi nay và trong giờ lâm tử”. Chính vì thế Kinh Kính Mừng đã trở thành lời nguyện tắt mọi lúc mọi nơi.

Kinh Mân Côi: Qua Mẹ để tới Chúa Kitô.

Thật vậy, hình thức lời kinh trực tiếp dâng lên Đức Mẹ, nhưng nội dung chiêm niệm lại là mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu trải ra theo mười lăm ngắm truyền thống Vui Thương Mừng và năm mầu nhiệm sự Sáng do Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đề nghị. Chả thế mà Đức Phaolô VI trong Tông huấn Marialis Cultus đã gọi Kinh Mân Côi là “cuốn Phúc Âm rút gọn”, rất gọn không còn cách nào gọn hơn được nữa, để có thể ghi vào trong bộ nhớ sống, sẵn sàng bung ra làm việc trên màn hình máy tính cuộc đời. Từ việc Chúa Giêsu sinh ra trong Máng cỏ đến việc Người biến hình trên Núi Tabor, rồi qua việc Người như bị Chúa Cha ruồng bỏ, để hiện hình sáng tỏ trong mùa Phục Sinh.

Tất nhiên người ta có thể đến với Chúa Giêsu bằng nhiều cách khác nhau như đọc Phúc Âm, rước Thánh Thể, thương giúp người…, nhưng đến với Chúa Giêsu bằng cung cách của Kinh Mân Côi thì quả là độc đáo; không phải là bí tích nhưng hiệu quả dọn đường cho bí tích; không phải là Phụng Vụ nhưng tâm tình rất cận kề Phụng Vụ; và nhất là được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng”, tức là “khẩu tụng” đều đều lời kinh Đức Mẹ và “tâm suy” dài dài cuộc đời Đấng Cứu Thế.

“Ad Jesum per Mariam” chính là đây, bằng phương thức tụng niệm tức là vừa đọc vừa suy niệm của Kinh Mân Côi. Đó là kết cấu tinh thần. Ngay trong kết cấu vật thể của tràng hạt Mân Côi, người ta cũng thấy rõ dụng ý này: năm mươi Kinh Kính Mừng kết thành tràng hạt, nhưng cả tràng hạt chỉ được kết thúc bằng tượng Chúa Giêsu chịu chết treo trên Thánh Giá. Thật diệu kỳ được Đức Mẹ dẫn tới Chúa Giêsu.

Kinh Mân Côi là phương thế giúp người người vững bước trên đường nên thánh

Khi nêu lên hiệu quả thánh hóa của Kinh Mân Côi trong nhịp sống Giáo Hội, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã không quên gợi lại những chứng tích lịch sử, những khuôn mặt tiền nhiệm, những lời kêu gọi của Đức Mẹ trong những lần hiện ra tại Lộ Đức và Fatima, và nhất là chính kinh nghiệm bản thân gắn bó với chuỗi Mân Côi, ngày xưa còn bé cũng như trong sứ vụ hiện nay và cách riêng qua biến cố ngài bị ám sát hụt ngày 13 tháng 05 năm 1981 kỷ niệm dịp Đức Mẹ hiện ra lần đầu tiên tại Fatima. Kinh Mân Côi, như kiểu nói bình dân, chính là vũ khí giúp ta chống lại ba thù “ma quỷ, thế gian, xác thịt”, và là sinh tố tăng cường ba việc “nên thánh, mến Chúa, yêu người”.

Nếu nhân đức là việc tốt lành được tập tành lặp đi lặp lại thành thói quen phản xạ tự nhiên, thì Kinh Mân Côi chính là một bửu bối không thể thiếu được cho người tu thân luyện đức theo gương Đức Mẹ và theo chân Chúa Giêsu từ Máng Cỏ ấp ủ qua Thập Giá trui rèn tới Nhà Tạm chiêm ngưỡng. Mỗi một mầu nhiệm xướng lên là một nhân đức khơi gợi để theo lời kinh nhả nhẹ và dưới tác động của ơn thánh, lòng người được bớt bất xứng hơn, tạo điều kiện thuận lợi dần dần cho việc nên thánh.

Những nhà thông thái có sách vở chữ nghĩa, những nhà cai trị có sức mạnh quyền hành, những nhà tu trì có bầu khí ổn định làm phương tiện, còn hầu hết chúng ta là những nhà “tu hành” nghĩa là tu thân bằng việc hành đạo như người giáo dân, hay đi tu mà vẫn phải đi tới đi lui đi xuôi đi ngược ở giữa cuộc đời như các giáo sĩ triều, thì Kinh Mân Côi chính là một hành trang và phương tiện “bỏ túi” (hoặc đeo tay đeo cổ) gọn nhẹ giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Theo định nghĩa này, Kinh Mân Côi không khác gì điện thoại di động hòa đời ta vào mạng sự sống thiêng liêng.

Tóm lại, Kinh Mân Côi, đúng như kiểu nói của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, chính là lời kinh diệu kỳ dâng qua Đức Mẹ tới Chúa Giêsu để người đọc được vững bước đi trên đường thánh hóa. Đối với cộng đoàn hôm nay kết thúc ba ngày tĩnh tâm khởi đầu cho năm học mới, ta quyết tâm đọc Kinh Mân Côi với nhiều xác tín hơn, để năm học mới tâm hồn được bình an hơn, việc tuân thủ kỷ luật cá nhân và cộng đoàn được nghiêm minh hơn và nhất là từng người được nỗ lực sống thánh đức hơn.  [Mục Lục]

3. Cầu Nguyện Bằng Chuỗi Mân Côi- ĐGM G.B Bùi Tuần

Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.

Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.

Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.

Chuỗi Mân côi đốt lên lửa mến.

Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.

Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.

Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.

Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.

Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.

Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.

Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.

Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.

Chuỗi Mân côi thắp sáng niềm hy vọng cứu độ.

Lịch sử cho thấy: Khi khấn cầu ơn nọ ơn kia, nhiều người đã dựa vào chuỗi Mân côi như một nguồn để tìm sức mạnh cậy trông.

Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.

Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.

Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.

Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.

Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.

Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.

Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.

Chuỗi Mân côi mở kho tàng trái Tim Đức Mẹ.

Trước đây, chuỗi Mân côi được truyền bá bởi các thánh, và Hội Thánh. Nay, chính Đức Mẹ lên tiếng.

Tại Fatima, khi hiện ra với ba trẻ, Phanxicô, Giacinta và Lucia, Đức Mẹ đã mang chuỗi Mân côi. Đức Mẹ cũng đã khuyên người ta hãy năng cầu nguyện kinh Mân côi.

Tại Fatima, Lộ Đức và những nơi hành hương, chuỗi Mân côi ví như những chuỗi hoa hồng của các trái tim không ngừng dâng lên Đức Mẹ. Còn Đức Mẹ, thì luôn mưa những hoa hồng thiêng xuống cho các người chân thành cầu khấn. Hoa hồng nói đây là những ơn phúc phần hồn phần xác. Ơn phúc đủ loại, nhất là ơn sám hối, ơn trở về với Chúa, ơn đổi mới cuộc đời, ơn đi sâu vào Phúc Âm, ơn biết đón nhận thánh ý Chúa để trở thành cộng tác viên đắc lực của Đức Mẹ đồng công cứu chuộc.

Các ơn Đức Mẹ ban qua chuỗi Mân côi phát xuất từ trái tim Đức Mẹ. Trái tim ấy đầy tình thương và cũng đã chịu nhiều đau đớn, để cùng với Chúa Giêsu cứu chuộc nhân loại bằng hy sinh trên thánh giá. Vì thế có thể nói, các ơn đó đến từ trên, và chảy vào trong nội tâm mỗi người. Với nhận thức đó, chúng ta hiểu ý nghĩa lời Đức Mẹ nói với Bernadette ở Lộ Đức: “Mẹ không hứa cho con hạnh phúc đời này, nhưng hạnh phúc đời sau”. Tuy nhiên, ngay ở đời này, những ai lần chuỗi Mân côi, cũng sẽ được Đức Mẹ thương ban ơn, cách này hay cách khác.

Hiện nay, cuộc sống đang đặt ra nhiều vấn đề nan giải. Kinh Mân côi sẽ giúp chúng ta tìm được lối thoát. Lối thoát sẽ từ trên trái tim Đức Mẹ mà xuống và từ trong nội tâm ta mà ra. Nội tâm ta cầu nguyện sám hối. Trái tim Đức Mẹ sẽ làm chứng một cách sống động lời thiên thần đã nói với Đức Mẹ xưa: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (Lc 1,37). [Mục Lục]

4. Hoa Mân Côi – ĐGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Mỗi khi tháng Mười về, những người con thảo của Đức Mẹ lại rộn ràng với những điệu vãn lời kinh để cùng tôn vinh Mẹ và cùng Mẹ suy ngắm cuộc đời Chúa Cứu thế. Mỗi lời kinh “Ave Maria” được sánh ví như một đóa hồng dâng kính Đức Mẹ. Lời kinh Mân Côi muốn diễn tả với chúng ta biết bao điều tốt đẹp.

“Vườn Rôsa bao quanh lái (trái) đất,

Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền” (Ngắm Rôsa)

Vườn Rôsa trong câu thơ trên chính là Giáo Hội. Giáo Hội của Chúa được sánh ví như một vườn hoa rộng lớn mênh mông, mà ở đó được trồng những cây hồng với muôn sắc hoa rực rỡ. Giáo Hội của Chúa thật đẹp biết bao. Vẻ đẹp ấy không thể hiện nơi những tòa nhà cổ kính khang trang kiến trúc cầu kỳ, mà là nơi những cộng đoàn tín hữu, nhất là khi họ hội họp nhau để cử hành phụng vụ: tất cả cùng một đức tin, một tình mến, một tâm hồn để tôn vinh và ca tụng Chúa. Vẻ đẹp của Giáo Hội được tỏa rạng từ nụ cười móm mém của các lão ông lão bà, đến những gương mặt rất thơ ngây của các em nhỏ trong những cuộc rước tôn vinh Chúa, Đức Mẹ hay các thánh. Vẻ đẹp của Giáo Hội còn được thể hiện nơi những người cha người mẹ, nơi các bạn trẻ công giáo, được thấm nhuần tinh thần Phúc âm, đang hăng hái nhiệt tình góp phần làm cho quê hương đất nước thêm tươi đẹp. Những nụ cười, những tâm hồn hy sinh ấy chính là những đóa hồng trong vườn Giáo Hội, làm cho Danh Chúa được rạng rỡ vinh quang.

Lời “Vãn Mân Côi” cũng đưa chúng ta về một thời của lịch sử Giáo Hội: vào thế kỷ 13, Giáo Hội gặp nhiều khủng hoảng, nhất là từ những nguy cơ đến từ một bè lạc giáo có tên là Albigeois ở miền nam nước Pháp. Năm 1213, Đức Mẹ đã hiện đến với Thánh Đaminh và trao cho ngài một cỗ tràng hạt. Mẹ hứa, nếu các tín hữu siêng năng lần hạt thì Giáo Hội sẽ được an bình trở lại. Thánh Đaminh vâng lời Đức Mẹ, nhiệt thành kêu gọi mọi người đọc kinh Mân Côi và đúng như lời Đức Mẹ hứa, bè lạc giáo đã tan rã và Giáo Hội được hưng thịnh. Chính từ biến cố lịch sử này mà Giáo Hội được gọi là “vườn Rôsa” – vườn của những đóa hoa hồng, vì nhờ kinh Mân Côi, Giáo Hội đã tìm lại được vẻ đẹp huy hoàng của mình. Ngày lễ Đức Mẹ Mân Côi vào ngày 7-10 hằng năm cũng được Đức Piô V thiết lập để ghi nhớ chiến thắng của Hải quân Kitô giáo với quân Thổ Nhĩ Kỳ tại trận Lepanto ngày 7-10-1571. Chiến thắng này có được là nhờ các tín hữu lần hạt Mân Côi trong ngày giao chiến.

Một câu chuyện kể rằng Thánh Đaminh đã có sáng kiến kết 150 bông hoa hồng thành một chuỗi dài, tượng trưng cho 150 thánh vịnh. Ngài đã dùng những cánh hồng thơm ngát, nén chặt như ép khuôn và làm thành từng hạt hình tròn, nối liền với nhau thành một tràng hạt. Từ đó, tràng hạt được gọi là chuỗi Mân Côi, tức chuỗi hoa hồng.

“Đức Bà như Hoa Hường (hồng) màu nhiệm vậy” (Kinh cầu Đức Bà)

Trong vườn Rôsa, tức vườn Giáo Hội, có một đóa hoa vượt trổi về màu sắc và hương thơm. Đóa hoa ấy mang tên là Maria. Đức Maria vừa là Mẹ của Giáo Hội, đồng thời cũng là chi thể của Giáo Hội. Mẹ là mẫu mực cho đời sống đức tin của các tín hữu. Nơi Mẹ, Giáo Hội chiêm ngưỡng hình ảnh của mình trong tương lai. Mẹ diễn tả một hình ảnh không tỳ ố, không vết nhơ của Giáo Hội. Mẹ là hy vọng của Giáo Hội đang vươn tới vinh quang rạng rỡ như Mẹ.

Là Mẹ của Đức Giêsu, Mẹ cũng là Mẹ của Giáo Hội. Bằng sự quan tâm hiền mẫu của mình, Mẹ luôn đỡ nâng chúng ta là môn đệ của Đức Giêsu. Cũng như tại Cana ngày nao, Mẹ đang dặn dò chúng ta: “Người bảo sao, các con hãy cứ làm như vậy” (Ga 2,5). Mẹ dạy chúng ta phó thác nơi Chúa, như Mẹ đã kiên trung tín thác suốt đời, để Thánh ý của Chúa được thực hiện, vì ơn cứu độ của toàn thể nhân loại.

Khi tôn vinh Đức Mẹ là Hoa Hồng, chúng ta ca tụng quyền năng của Chúa đã tác tạo nên Mẹ, như một tạo vật hoàn hảo, xứng đáng là ngai tòa cho Ngôi Lời nhập thể. Khi chiêm ngưỡng vẻ đẹp cao siêu của Mẹ, chúng ta nguyện ước noi gương Mẹ, trau dồi các nhân đức, mến Chúa yêu người, luôn lắng nghe và thực thi Lời Chúa.

“Mỗi người là một cành hoa, cùng đem về đây góp gió,

Làm thành vườn hoa, muôn màu muôn sắc tươi xinh” (Lời một bài hát)

Mỗi chúng ta, khi sinh vào cuộc đời, cũng giống như một loài hoa để tô điểm cho thế giới này tươi đẹp. Sự khác biệt về tuổi tác, giới tính, trình độ văn hóa hay điều kiện kinh tế không phải là những lý do gây mâu thuẫn, nhưng làm cho cuộc sống thêm phong phú. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã nhận mình là một loài hoa được Thiên Chúa chăm sóc yêu thương một cách đặc biệt. Đã là hoa trong vườn, dù thuộc chủng loại nào, những bông hoa đều cống hiến hương sắc cho đời. Con người cũng thế, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, cũng có trách nhiệm góp phần làm cho cuộc sống thêm nhân ái hơn.

Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.

Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.

Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.

Đức Chân phước Gioan Phaolô II đã nói: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lặp lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy” (Tông thư Kinh Mân Côi).

Lạy Mẹ Mân Côi, xin chúc lành và hướng dẫn chúng con trên mọi nẻo đường trần gian. Amen [Mục Lục]

5. Sứ Điệp Về Đức Maria- Lm. Ignatio Hồ Thông

Đức Ma-ri-a không xin dấu lạ. Chính sứ thần tự mình đề nghị ban cho Mẹ một dấu lạ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi mà cũng đã thụ thai: một người vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng”, điều mà về phương diện con người không thể được. Vì thế, sứ thần chấm dứt bởi cùng những lời mà Thiên Chúa đã ngỏ lời với tổ phụ Áp-ra-ham, trước sự ngạc nhiên của ông, vì vợ ông, bà lão Sa-ra có thể sinh cho ông một cậu con trai : “Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được” (St 18: 14).

Đây là một trong số những chủ đề xuyên suốt Tin Mừng và sách Công Vụ: “Đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được”. Trong hoạt cảnh trước đó, dù bà Ê-li-sa-bét son sẽ, cũng không thể ngăn cản mục đích của Thiên Chúa. Cũng như vậy đối với bà Sa-ra (St 11: 30), bà Rê-bê-ca (St 25: 21), bà Ra-ken (St 29: 31) và mẹ của ông Sam-son (Tl 13: 2). Với Đức Ma-ri-a, Mẹ của Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, chúng ta gặp thấy điều gì đó thậm chí còn kỳ diệu hơn nữa. Chính Thánh Thần Thiên Chúa thực hiện một công trình sáng tạo mới nơi cung lòng của Đức Nữ Trinh.

“Phủ bóng trên bà” nhắc lại Lều Hội Ngộ, nơi vinh quang Thiên Chúa cư ngụ ở giữa dân Ngài. Đức Ma-ri-a được vây phủ bởi vinh quang rạng ngời của Ngài, và Thần khí của tình yêu Thiên Chúa thổi hơi sự sống vào trong cung lòng Mẹ. Sự sống nầy là hoa trái của tình yêu Thiên Chúa đối với Đức Ma-ri-a và lời đáp trả tròn đầy của Mẹ. Chính từ mối hiệp thông thánh thiện nầy mà hài nhi được thụ thai trong cung lòng Mẹ.

Không có gì có thể ngăn cản ‎kế hoạch yêu thương của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tình yêu tự nó không thể nào bị ép buộc được. Thiên Chúa trao ban cho Mẹ tình yêu đặc biệt của Ngài. Tất cả những gì Thiên Chúa đòi hỏi ở nơi Mẹ, chính là tin vào tình yêu của Ngài. Đức Ma-ria tự nhận mình là “nữ tì của Thiên Chúa”. Mẹ mở rộng tấm lòng mình để đón nhận tình yêu nầy với lời“Xin Vâng” tròn đầy: “Vâng, tôi đây là nữ tì của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần truyền”. Chính vì thế, qua Mẹ Thiên Chúa có thể thực hiện dự định yêu thương của Ngài cho nhân loại.

Nơi Thiên Chúa chọn để Con của Ngài đến với nhân loại là con người của Đức Ma-ri-a, thanh sạch và rạng ngời vinh hiển của Chúa Thánh Thần, Đấng phủ bóng trên Mẹ. Vì thế, cung lòng của Đức Nữ Trinh là Lều Hội Ngộ, là Đền Thờ đẹp nhất, là nơi cực thánh của Thiên Chúa làm người và ở cùng chúng ta. [Mục Lục]

6. Lời Kinh Tuyệt Vời – Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Phụng vụ bước vào tháng Mân côi. Suốt tháng này, lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ mang một đặc điểm riêng.

Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi. Mọi tín hữu được cùng với Đức Mẹ trên từng cây số cuộc đời Chúa Giêsu và theo phong cách của Đức Mẹ là “lưu giữ và suy niệm trong lòng” qua từng lời kinh chuỗi hạt Mân côi.

Tràng hạt Mân côi là một hành trang và là phương tiện “bỏ túi”, “đeo tay” “đeo cổ” gọn nhẹ. Lời kinh kỳ diệu này giúp thánh hóa bản thân, gia đình và xã hội. Kinh Mân côi không khác gì điện thoại di động hòa đời người vào mạng lưới sự sống thiêng liêng.

Chuỗi Mân Côi trong tiếng Latinh là “rosarium” nghĩa là “vườn hoa hồng”. Tháng 10, lần hạt Mân côi, đoàn con cái hiếu thảo dâng biết bao hoa hồng lên Đức Mẹ. Bằng chuỗi Mân côi, Giáo hội trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp tiến dâng Mẹ hiền.

Kinh Mân côi đem lại nhiều ơn ích thiêng liêng

Chuỗi Mân côi thật cao quí, ai biết siêng năng lần hạt sẽ nhận được hiệu quả phi thường.

Vào thế kỷ 13, bè rối Albigeois nổi lên ở miền Nam nước Pháp. Với Chuỗi Mân côi do Đức Mẹ truyền dạy, chỉ trong một thời gian ngắn, thánh Đaminh đã cảm hóa được 150.000 người theo bè rối trở về cùng Giáo Hội.

Thế kỷ 16, ảnh hưởng của Tin lành mạnh mẽ và đe dọa toàn cõi Âu Châu. Dân thành Luxembourg vẫn trung thành với Giáo Hội. Hôm ấy toàn thể dân phố được mời tới nhà thờ để nghe giảng thuyết.

Khi vị mục sư bước lên tòa giảng, một người giáo dân xướng kinh và tất cả nhà thờ đều lần hạt to tiếng cho đến lúc vị mục sư phải bước xuống tòa giảng và ra khỏi nhà thờ. Nhờ kinh Mân côi, dân thành Luxembourg giữ vững niềm tin và trung thành với Giáo Hội.

Năm 1511, lịch sử được chứng kiến một thành quả vĩ đại của Kinh Mân côi mang lại. Chính biến cố lịch sử này là nguồn gốc lễ kính Thánh Mẫu Mân côi. Khi ấy quân Hồi xâm lăng Âu Châu, tàn phá những nơi họ đi qua, tiêu diệt dân Công giáo. Cùng với việc triệu tập đạo quân thánh giá từ hai nước Ý và Tây Ban Nha, Đức Giáo hoàng Piô V kêu gọi mọi người siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Cuộc chiến quá chênh lệch đã diễn ra tại vịnh Lepante, nhưng với quân số ít ỏi và khí giới thô sơ, người Công giáo đã thắng trận vẻ vang trước đoàn quân Hồi giáo đông đảo và trang bị hùng hậu. Từ Roma, Đức Giáo hoàng nghe tin chiến thắng và nói với các vị trong giáo triều hãy tạ ơn Chúa. Hôm đó là ngày 07 tháng 10. Đức Giáo hoàng đã thiết lập lễ Mân côi để tạ ơn Đức Mẹ và ghi nhớ cuộc chiến thắng lịch sử này.

Trước năm 1917, Bồ Đào Nha ở vào một tình trạng suy thoái một cách trầm trọng về phương diện tôn giáo. Gần hai thế kỷ, óc bè phái đã gây nên những chia rẽ và những cuộc nội chiến. Giáo Hội bị bách hại bởi những kẻ theo nhóm tam điểm. Nhà thờ bị phá hủy, các linh mục và tu sĩ bị bắt bớ, khắp nơi người ta tổ chức những đoàn hội chống lại Giáo Hội. Thế nhưng kể từ năm 1917, năm Đức Mẹ hiện ra tại Fatima, Bồ Đào Nha đã đi vào một khúc quanh mới của lịch sử. Người ta tổ chức những đoàn hội chuyên lo lần hạt Mân côi để xin Mẹ chấm dứt những xáo trộn và ban mọi ơn lành xuống cho đất nước. Bồ Đào Nha đã xứng đáng với tước hiệu quê hương của kinh Mân côi.

Lịch sử còn ghi lại nhiều thành quả kỳ diệu khác nữa của Kinh Mân côi. Chẳng hạn Kinh Mân côi đã mang lại chiến thắng tại Vienna ngày 12 tháng 9 năm1683, hay đã chấm dứt bệnh dịch tại Milan…

Chuỗi Mân côi vẫn còn là một phương thế cứu rỗi hữu hiệu của mỗi tín hữu. Khi hiện ra tại Lộ Đức hay tại Fatima, Đức Mẹ đều kêu gọi chúng ta hãy siêng năng lần chuỗi Mân côi.

Tạp chí Reader’s Digest số ra tháng 4 năm 1991 có kể lại cuộc gặp gỡ kỳ thú giữa Mẹ Têrêxa Calcutta và một thương gia người Mỹ như sau:

Trên chuyến máy bay từ Chritiamy về Thanasity, thương gia trẻ tên là Jim Caiso ngồi kề bên Mẹ Têrêsa và một nữ tu khác. Jim Caiso nhận ra ngay khuôn mặt của người nữ tu thường được báo chí nhắc đến. Khi những người khách cuối cùng ngồi vào yên vị trên máy bay thì Jim thấy hai người nữ tu từ từ rút chuỗi ra khỏi áo và lâm râm cầu kinh. Tuy không phải là một người công giáo sùng đạo nhưng Jim cũng cảm thấy bị lôi cuốn bởi sự cầu kinh của hai người nữ tu. Khi máy bay đã lên cao, Mẹ Têrêsa quay nhìn người thanh niên và hỏi:

-Anh có thường lần chuỗi không?

Anh trả lời:

-Thưa không.

Anh vừa trả lời thì Mẹ cầm tay anh, trao cho anh tràng chuỗi rồi mỉm cười nói:

-Vậy thì hãy bắt đầu lần chuỗi đi.

Ra khỏi phi trường Jim vẫn còn cầm trên tay tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta. Anh kể lại cho vợ nghe cuộc gặp gỡ với Mẹ Têrêsa và kết luận như sau: “Anh có cảm tưởng như mình đã gặp một nữ tu đích thực của Chúa”.

Chín tháng sau, Jim và vợ anh đến thăm một người đàn bà đã từng là bạn của hai người từ nhiều năm qua. Người đàn bà này bác sĩ cho biết bà đã bị ung thư tử cung. Theo các bác sĩ, đây là trường hợp đáng lo ngại. Nghe thế, Jim đưa tay vào túi quần, rút ra tràng chuỗi của Mẹ Têrêsa Calcutta và trao cho người bạn. Anh nói như sau:

-Chị cầm lấy cái này, nó sẽ giúp chị. Mặc dù không phải là người Công giáo, người bạn này vẫn mở rộng bàn tay ra và trân trọng đón nhận món quà quí giá ấy. Một năm sau gặp lại vợ chồng Jim, người đàn bà vui vẻ cho biết bà đã mang trong mình tràng chuỗi trong suốt năm qua và giờ đây trao lại cho Jim để may ra có thể còn giúp đỡ cho người khác. Trong thời gian đó, người chị vợ của Jim đang bị khủng hoảng sau cuộc ly dị, bà cũng muốn được mượn tràng chuỗi của Jim.

Sau này bà kể lại rằng:

– Hằng đêm, tôi đeo chuỗi vào người. Tôi rất cô đơn và sợ hãi, nhưng khi mang chuỗi vào người, tôi cảm thấy như đang cầm lấy một bàn tay thân yêu.Tràng chuỗi mầu nhiệm ấy không mấy chốc đã được trao từ tay người này đến người khác. Mỗi khi gặp khủng hoảng hay bệnh tật, người ta thường gọi điện thoại đến Jim để mượn cho bằng được tràng chuỗi ấy.

Jim suy nghĩ:

– Phải chăng tràng chuỗi có một sức mạnh lạ lùng, hay đúng hơn, sức mạnh tinh thần được canh tân nơi tất cả những ai mượn tràng chuỗi ấy. Jim chỉ biết rằng, hễ có ai ngỏ ý mượn tràng chuỗi, anh luôn đáp trả một cách vui vẻ, và lần nào anh cũng căn dặn: “Khi nào không cần nữa cho tôi xin lại. Có thể sẽ có người khác cần đến”.

Cuộc sống của Jim cũng thay đổi kể từ cuộc gặp gõ đó với Mẹ Têrêsa Calcutta. Khi Jim nhớ lại rằng: Mẹ Têrêsa mang tất cả hành lý của Mẹ trong cái xách tay nhỏ, anh cũng cảm thấy được thôi thúc để làm cho cuộc sống của anh được đơn giản hơn. Anh nói như sau:

-Tôi luôn cố gắng nhớ rằng: điều quan trọng trong cuộc sống không phải là tiền bạc, danh vọng mà chính là tình yêu chúng ta dành cho người khác.

Kinh Mân côi, một kho tàng quý giá của Giáo hội.

Chuỗi hạt Mân côi 200 hạt, 150 hạt, 50 hạt hay 10 hạt được dùng để đếm số Kinh Kính mừng là “…lời ca tụng Đức kitô không ngừng. Đức Kitô được nhắc đến trong mỗi Kinh Kính Mừng cũng là Đấng được trình bày trong chuỗi các mầu nhiệm: Người là Con Thiên Chúa và là Con Đức Trinh Nữ…” (ĐGH Phaolô VI, Rosamrum Virginis Mariae, số 18).

Chuỗi Mân côi lần lượt diễn tả:

-Mầu nhiệm Vui: đồng hành với mầu nhiệm Nhập thể và đời sống âm thầm của Chúa Giêsu.

-Mầu nhiệm Sáng: đồng hành với những mốc thời gian hoạt động đặc biệt có ý nghĩa trong cuộc đời công khai của Chúa Giêsu.

-Mầu nhiệm Thương: đồng hành với những đau khổ của cuộc khổ nạn Chúa Giêsu.

-Mầu nhiệm Mừng: đồng hành với vinh quang phục sinh của Đức Kitô.

Vì thế, Chuỗi Mân côi là kho tàng thiêng liêng quý giá của Giáo hội. Đức Chân Phước Gioan Phaolô II nói: ” Chuỗi Mân côi là lời kinh tuyệt diệu, tuyệt diệu trong đơn sơ và trong sâu thẳm của nó…”.

Đức Thánh Cha Lêô XIII là vị Giáo Hoàng của kinh Mân côi. Ngài đã ban hành 12 thông điệp nói về Kinh Mân côi. Ngài đã thiết lập tháng Mân côi và thêm vào kinh cầu Đức Bà câu: Nữ vương rất thánh Mân côi, cầu cho chúng con.

Đức Thánh Cha Piô X đã nhắn nhủ các gia đình Công giáo: “Khi gia đình được an vui hoà thuận, hãy lần chuỗi Mân côi để xin Mẹ ban cho sự an vui hoà thuận yêu thương. Khi gặp người chồng thiếu trách nhiệm, hãy chạy đến với Mẹ nhờ tràng chỗi Mân côi, để xin Mẹ cảm hoá. Khi vợ chồng xung khắc nhau, hãy lần chuỗi Mân côi, xin Mẹ tạo sự cảm thông”.

Thánh Piô Năm Dấu Thánh chia sẻ: “Vũ khí của tôi là tràng hạt Mân côi. Đức Mẹ không từ chối tôi điều gì khi tôi xin với Mẹ qua chuỗi Mân côi. Muốn làm Đức Mẹ vui lòng và muốn được Đức Mẹ thương yêu hãy lần chuỗi Mân côi”

Cha Stefano Gobbi viết: “Chuỗi Mân côi mang lại hòa bình cho bạn. Với lời Kinh Mân côi, bạn sẽ có thể nhận được từ Thiên Chúa hồng ân vĩ đại nhất là canh tân đời sống, thu phục các linh hồn về với Chúa trong sự ăn năn tội, tình yêu và thánh ân”. Và “Chuỗi Mân côi là lời kinh của tôi. Những lời kinh này dù khiêm nhường và mong manh cũng sẽ nên như xích sắt để khóa lại quyền lực tối tăm của thế giới, kẻ thù của thế giới và của các tín hữu”.

Đức Thánh Cha Piô IX đã khuyên nhủ: hãy lần chuỗi mỗi buổi tối trong gia đình.

Đức Thánh Cha Piô X cũng nhắc bảo: Nếu các con muốn cho gia đình được bình an, thì hãy lần hạt mỗi buổi tối.

Đức Thánh Cha Piô XI viết:Chúng tôi khuyên các bậc làm cha làm mẹ hãy tập cho con cái mình thói quen lần chuỗi. Mỗi lần tiếp kiến các đôi vợ chồng trẻ, chúng tôi đều khuyên nhủ họ hãy siêng năng lần chuỗi. Ngay cả chúng tôi nữa, không ngày nào mà chúng tôi không lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Piô XII khuyên nhủ các bạn trẻ : Hãy yêu mến Mẹ qua việc lần chuỗi Mân côi. Năm 1951 ngài đã ra thông điệp về Kinh Mân côi, và xin các tín hữu hãy lần chuỗi gấp đôi trong tháng Mân côi. Trong một lần tiếp kiến, ngài nói với một vị Giám mục :

-Hãy yêu cầu các linh mục của ngài cầu nguyện và hãy nói cho họ biết : Đức Thánh Cha vẫn lần chuỗi mỗi ngày.

Khi về già, trước lúc đi ngủ, dù là nửa đêm, ngài cũng vẫn lần chuỗi.

Đức Thánh Cha Gioan XXIII, ngay trong năm đầu của triều đại cũng đã ra một thông điệp về Kinh Mân côi.

Đức Chân Phước Gioan Phaolô II, ngay trong tuần lễ sau khi đắc cử Giáo Hoàng, đã nói với tất cả các tín hữu hiện diện tại quảng trường Thánh Phêrô khi đọc kinh Truyền Tin: “Chuỗi Mân côi là lời cầu nguyện mà tôi yêu thích nhất. Đó là lời kinh tuyệt vời. Tuyệt vời trong sự đơn giản và sâu sắc. Với lời kinh này chúng ta lập lại nhiều lần những lời mà Đức Trinh Nữ đã nghe sứ thần Gabriel và người chị họ Êlisabeth nói với Mẹ. Toàn thể Giáo Hội cùng liên kết với những lời kinh ấy”.

Các Đức Thánh Cha đều khẳng định về sự tuyệt diệu của Kinh Mân côi và mong muốn mọi tín hữu hãy siêng năng lần chuỗi. Các tín hữu đã đáp trả lời mời gọi tha thiết ấy.

Đức Mẹ rất yêu mến những ai siêng năng đọc Kinh Kính Mừng. Qua kinh Mân côi, chúng ta lặp đi lặp lại không những một hai lần Kinh Kính Mừng, nhưng là đọc đi đọc lại cả một trăm năm mươi lần, như một trăm năm mươi đóa hoa hồng dâng kính Mẹ, như lời Đức Giáo Hoàng Piô V đã nói: “Đây là việc tôn kính Đức Trinh Nữ Maria bằng cách đọc một trăm năm mươi Kinh Kính Mừng, theo con số các thánh vịnh của Đavít, chia thành từng chục kinh một với một Kinh Lạy Cha, đồng thơi suy ngắm các mầu nhiệm về toàn thể cuộc đời của Chúa Giêsu Kitô.”.

Kinh Mân côi, lời kinh gần gũi cuộc sống

Sau hai mươi lăm năm, tức là vào dịp mừng Ngân khánh Giáo Hoàng, trong Tông thư “Kinh Mân côi”, một lần nữa, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ân cần nhắc lại kỷ niệm xưa mà nay đã trở thành xác tín: Kinh Mân côi là lời kinh kỳ diệu. Đơn giản trong hình thức, đơn sơ trong nội dung, nhưng không đơn thuần là một kinh dành cho giới bình dân như có thời người ta nghĩ, nhất là sau Vatican II khi Phụng Vụ tìm lại được vị thế đỉnh cao và trung tâm.

Kinh Mân côi là kinh hạt phổ quát cho hết mọi người, phổ cập cho mọi trình độ và phổ biến trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Ngày nay nhiều người phàn nàn không có giờ đọc kinh vì phải lo học hành, lo làm ăn xuôi ngược. Chuỗi hạt Mân côi sẽ nuôi dưỡng đời sống nội tâm phong phú. Con người hôm nay mệt mỏi, lo âu, căng thẳng, vội vã. Chuỗi Mân côi làm lòng người lắng dịu, thanh thản bình an để chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu và ca ngợi Mẹ.

Đức Giáo hoàng Phaolô VI khích lệ: “Bản chất việc đọc kinh Mân côi đòi hỏi nhịp điệu phải chậm rãi và có thời gian thư thả, để người ta có thời gian suy gẫm sâu xa về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu được nhìn qua Trái Tim của Đấng gần gũi nhất với Chúa.”.

Điều thuận lợi của chuỗi Mân côi là lần hạt ở đâu cũng được. Ta không buộc phải đọc 50 Kinh Mân côi một lần mà có thể đọc bao nhiêu tuỳ vào thời gian ta có. Ta cũng có thể vừa làm việc vừa đọc Kinh Mân côi, không nhất thiết phải có tràng hạt trên tay. Ta cũng có thể thì thầm bất cứ lúc nào: khi chờ xe bên đường, lúc đi học, khi giải trí, khi đau bệnh… thay vì đưa mắt nhìn chung quanh, thay vì nghe những chuyện không đâu, ta cũng có thể lần hạt. Dù bận bịu đến đâu ta cũng có thể lần hạt. Đó là cách cầu nguyện mà triết gia Jacques Maritain gọi là “chiêm niệm bên vệ đường”.

Kinh Mân côi là một vũ khí, nhưng là vũ khí hòa bình luôn đem lại hiệu quả tích cực. Ai yếu đuối, Kinh Mân côi đem cho sức mạnh; ai tội lỗi, Kinh Mân côi dắt về ơn thánh; ai bất hạnh, Kinh Mân côi giúp bình tĩnh tìm ra hướng lối vươn lên; ai khô khan, Kinh Mân côi giúp khám phá ra những ánh lửa vẫn còn ẩn giấu trong những đám tro tưởng như nguội lạnh.

Kinh Mân côi là một kinh quý báu của Giáo hội và của mọi người, đó là kinh phổ biến, vừa dễ đọc vừa dễ cầu nguyện mà lại mang lại nhiều ích lợi cho linh hồn.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy con biết yêu mến tràng Chuỗi Mân côi, siêng năng lần hạt trong mỗi ngày sống và xin Mẹ khẩn cầu cho con bên tòa Chúa. Amen [Mục Lục]

7. Phương Thuốc Thần Diệu– Lm. Ignatio Trần Ngà

Mọi tội lỗi của con người đều do một cội rễ sinh ra, đó là tội không vâng lời Thiên Chúa. Sở dĩ thủy tổ loài người là A-đam và E-và bị trục xuất khỏi vườn địa đàng, phải chịu đau khổ và phải chết, để lại hậu quả rất tai hại cho con cháu đời sau là vì hai ông bà đã không vâng lời Thiên Chúa, không đi theo đường lối Người. Hành động bất tuân nầy cũng như kiểu đoàn tàu trật đường rầy. Một khi nguyên tổ là đầu tàu chạy trật đường rầy thì cả đoàn tàu là muôn vàn con cháu cũng bị lao xuống vực sâu. “Thật vậy, vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân.” (Rôma 5, 19)

Vậy muốn cứu loài người khỏi tội và hậu quả của tội là đau khổ và sự chết, thì vấn đề tiên quyết là phải diệt trừ tận gốc căn nguyên gây nên tội, đó là sự bất phục tùng Thiên Chúa.

Tràng chuỗi mân côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi mân côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giê-su.

Gương vâng phục của Mẹ Maria

Dù Mẹ Maria được Thiên Chúa đưa lên địa vị cao vời là làm Mẹ của Ngôi Hai Thiên Chúa, thì Mẹ vẫn tự coi mình là người nữ tỳ hèn mọn, sẵn sàng vâng theo lệnh Chúa truyền. Mẹ đã thưa với Sứ Thần Gáp-ri-en rằng: “Tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Chúa cứ làm cho tôi như lời sứ thần nói”. Đó là bài học vâng phục mà Mẹ Maria dạy chúng ta qua mầu nhiệm vui.

Sự vâng phục trong tinh thần khiêm tốn của Mẹ Maria đã làm đẹp lòng Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã tôn vinh Mẹ, ban cho Mẹ được lên trời cả hồn lẫn xác (gẫm thứ tư thuộc năm sự mừng) rồi lại trọng thưởng Mẹ trên thiên quốc (gẫm thứ năm thuộc năm sự mừng).

Gương vâng phục của Chúa Giê-su

Song song với tấm gương vâng phục của Mẹ Maria là tấm gương vâng phục sáng ngời của Chúa Giê-su trong mầu nhiệm thương.

Trong Vườn Dầu, dẫu phải “lâm cơn xao xuyến bồi hồi, và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất…” thì Chúa Giê-su cũng xin thưa với Chúa Cha: “Xin đừng làm theo ý Con, mà làm theo ý Cha!” (Luca 22, 42. 44) (gẫm thứ nhất năm sự thương)

Kế đó, khi bị đưa ra toà xét xử, và dù phải chịu đòn vọt tơi bời (gẫm thứ hai năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn cắn răng chịu đựng để cho thánh ý Chúa Cha được thực hiện nơi Người.

Sau đó, quân dữ bện vòng gai làm như một thứ ‘vương miện’, chụp lên đầu Ngài, lại còn thay nhau khạc nhổ, phỉ báng, nhạo cười… (gẫm thứ ba năm sự thương), Chúa Giê-su vẫn bằng lòng chịu đựng trong tinh thần vâng phục ý Chúa Cha.

Dù đã đến lúc sức tàn lực kiệt, lại phải vác lấy thập giá nặng nề, lảo đảo bước lên đồi Can-vê như một tên tử tội khốn nạn nhất, phải ngã xuống nhiều lần (gẫm thứ tư), Chúa Giê-su vẫn xin vâng: “Xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”.

Dù phải chịu đóng đinh ô nhục và chịu chết rất đau thương trên thập giá giữa hai tên tử tội, chịu bao kẻ qua lại thách thức nhạo cười (gẫm thứ năm), Chúa Giê-su vẫn một lòng vâng theo ý Cha và xin Cha tha thứ cho những việc họ làm. (Luca 23, 34)

Như thế, từ gẫm thứ nhất cho đến thứ năm thuộc mầu nhiệm thương, rực sáng lên tấm gương vâng phục của Chúa Giê-su. Tấm lòng vâng phục triệt để đó đã được thánh Phao-lô khắc hoạ lại trong bài ca gửi tín hữu Phi-líp:

“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Phi-líp 2, 6-8)

Sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su rất đẹp lòng Thiên Chúa Cha nên Ngài đã cho Chúa Giê-su từ cõi chết sống lại và lên trời vinh hiển (gẫm thứ nhất và thứ hai năm sự mừng) và siêu tôn Chúa Giê-su vượt bậc: “Chính vì thế, Thiên Chúa Cha đã tôn vinh Người, ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu…” (Phi-líp 2, 9)

Thế là từ đây, nhờ sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giê-su, mọi kẻ tin sẽ được cứu độ, con cháu A-đam tưởng đã phải hư mất đời đời nay lại được cứu rỗi: “Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất (A-đam) đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất (Chúa Giê-su) đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.(Rôma 5, 19)

Như thế, tràng chuỗi mân côi là trường dạy về đức vâng lời: Vâng phục Thiên Chúa là phương thuốc diệt trừ tận gốc cội rễ mọi tội lỗi là sự bất phục tùng Thiên Chúa; vâng lời là phương thế giúp con người khỏi sa đoạ và là con đường dẫn đưa nhân loại về cõi trường sinh.

Phương thuốc thần diệu đó đã được Mẹ Maria và Hội Thánh trao vào tay mỗi người chúng ta qua tràng chuỗi Mân Côi. Ước gì mỗi người vui lòng đón nhận phương dược Mẹ ban để diệt trừ tận căn mầm mống tội lỗi ngay trong lòng mình. [Mục Lục]

8. Maria Thật Diệu Hiền- Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, CSsR

Mỗi năm tháng 10 về, Giáo Hội dành riêng để tôn kính và làm các việc lành phước đức để dâng kính Đức Mẹ. Tháng 10 là tháng, Giáo Hội khuyên nhủ con cái Mẹ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi và mau mắn đến với Mẹ. Hôm nay, Giáo Hội mừng kính lễ Mẹ Mân Côi. Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ, noi gương bắt chước Đức Mẹ và qua Mẹ chúng ta đến với Chúa. Chúng ta càng ngày càng yêu mến Mẹ, càng ngày càng làm cho nhiều người hiểu biết Mẹ và tôn kính Mẹ.

Nói đến Mẹ, viết về Mẹ sẽ không bao giờ cùng, thánh Bênađô đã viết: ”Nói về Mẹ không bao giờ cùng“ (De Maria numquam satis). Ngôn ngữ, chữ viết của trần gian, của con người sẽ không bao giờ lột tả được hết về Mẹ. Lễ Mân Côi được mọi người biết và mừng rất trọng thể vào năm 1571 khi Mẹ Maria ban ơn cho Đạo Binh Thánh Giá chiến thắng quân Thổ Nhĩ Kỳ ở vịnh Népante. Đức Giáo Hoàng Piô V đã cho phổ biến thánh lễ Mân Côi rộng rãi trên toàn thế giới. Đức Thánh Cha Lêô XIII đã viết nhiều thông điệp nói lên tầm quan trọng của Lễ Mân Côi dưới triều đại của Ngài.Và ngày nay, Giáo Hội hoàn vũ và đặc biệt Hội Thánh Việt Nam luôn hân hoan mừng lễ Mẹ Mân Côi một cách trọng thể và dạt dào tình thương.

Vâng, Mẹ Maria đã nhiều lần hiện ra trên thế giới, lần nào Mẹ cũng khuyên nhủ nhân loại ăn năn sám hối và siêng năng lần chuỗi Mân Côi. Với Kinh Mân Côi, chúng ta hiểu được lịch sử cứu rỗi. Bởi vì, qua năm sự vui, lịch sử cứu độ được bắt đầu khi Mẹ nói lời xin vâng làm theo ý Chúa. Với năm sự thương, cả lịch sử cứu độ được tỏ lộ qua sự đau khổ và sự chết của Chúa Giêsu trên Thập giá. Với năm sự mừng, lịch sử cứu độ được hoàn thành khi Chúa chết và ba ngày sống lại. Kinh Mân Côi là cuốn Kinh Thánh thu gọn. Đọc kinh Mân Côi chúng ta nhận thấy rõ vai trò của Mẹ và chỗ đứng, địa vị của Mẹ trong lịch sử cứu rỗi của Thiên Chúa. Chúng ta hãnh diện vì Mẹ được Thiên Chúa yêu thương, tuyển chọn làm Mẹ của Đấng Cứu Thế. Chính Mẹ được chia sẻ sự thánh thiện của Thiên Chúa là Đấng vô cùng thánh thiện và cũng chỉ có Mẹ được diễm phúc ấy.

Tên của Mẹ thật dịu hiền. Ai nghe danh thánh Mẹ cũng cảm phục sự hiền lành, đơn sơ, trong trắng, thánh thiện của Mẹ. Mẹ Maria đã hiện ra ở Fatima với ba trẻ là Lucia, Phanxicô va Jacinta. Mẹ khuyên nhủ các em phải siêng năng lần chuỗi Mân Côi và loan báo cho nhiều người lần chuỗi Mân Côi, ăn năn sám hối, trở về với Chúa. Ở Lộ Đức, Mẹ hiện ra với Bernadette, tay Mẹ đeo tràng hạt Mân Côi, Mẹ bảo Bernadette lần hạt, rồi Mẹ cũng đọc kinh lạy Cha và kinh Sáng danh. Mẹ hiện ra nhiều nơi, nhiều nước trên thế giới và ở đâu Mẹ cũng khuyên nhủ nhân loại, con người phải siêng năng lần chuỗi, cải tà qui chánh, ăn năn trở lại. Mẹ đã công khai xác nhận hiệu quả của việc lần hạt Mân Côi. Các Đức Thánh Cha đã luôn khuyến khích, khuyên nhủ Giáo Hội yêu mến Mẹ và siêng năng lần hạt Mân Côi. Đức Thánh Cha Phaolô VI đã viết nhiều Tông thư nói về Mẹ, Ngài viết: ”Sau việc đọc kinh Nhật Tụng thì việc đọc kinh Mân Côi được coi như một trong những kinh cầu nguyện chung tốt đẹp nhứt, hữu hiệu nhứt mà gia đình công giáo được khuyến khích đọc“. Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã luôn tin tưởng, cậy trông Mẹ. Ngài đã dâng triều đại Giáo Hoàng của Ngài cho Mẹ: ”Totus Tuus“ . Toàn thân của Đức Giáo Hoàng là thuộc về Mẹ.

Mừng lễ Đức Mẹ Mân Côi, Nhân loại, Giáo Hội ca tụng Mẹ vì nhờ Mẹ mà Đấng cứu độ được sinh ra nơi trần thế này. Với Kinh mân Côi chúng ta đi từng biến cố trong lịch sử cứu rỗi: biến cố của Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Đời sống đức tin của chúng ta sẽ được đảm bảo nếu chúng ta bám chặt lấy Chúa và đi từng chặng đường cứu rỗi qua việc đọc kinh Mân Côi. Lần chuỗi là hình thức đạo đức bình dân nhất mà lại có hiệu quả cứu rỗi nhất bởi vì kinh Mân Côi ai cũng có thể đọc được, suy gẫm và chiêm ngắm Chúa Giêsu và Mẹ Maria cách dễ dàng. Chúng ta có thể lần chuỗi riêng, chung trong nhóm, trong gia đình hay trong Nhà thờ. Kinh Mân Côi quả là giây bền đỗ của mọi người.

Lời kinh Mân Côi quả là đẹp biết bao vì khi chúng ta cất lên kinh Kính Mừng là chúng ta chào Mẹ và chúng ta cao rao tình yêu bao la của Mẹ.

Lạy Mẹ Maria, danh Thánh Mẹ thật cao vời; Chúng con chạy đến Mẹ Dâng tràng chuỗi Mân Côi; Mẹ mỉm cười hiền dịu Mẹ lần chuỗi với chúng con Ave Maria, Ave Maria

kính chào Mẹ Maria Mẹ tràn đầy ơn phúc hơn mọi người thiếu nữ, cung lòng Mẹ trắng trong, con Chúa ngự nơi Mẹ.

Quả phúc bởi lòng Mẹ Giêsu, Con Thiên Chúa…

Amen…Amen. [Mục Lục]

9. Cầu Nguyện Và Cải Thiện Đời Sống- Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ . Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.

Thế giới hôm nay ngày càng tục hoá. Ma quỷ cũng đang biến thế giới này thành nơi hưởng lạc, hưởng thụ và sa đoạ. Đặc biệt là Việt Nam hôm nay có rất nhiều cái nhất:

– Tai nạn giao thông nhất thế giới mỗi ngày trung bình 31 người chết. Đa số là coi thường tính mạng của mình và của tha nhân nên chảy ẩu, chạy thiếu nhường nhịn nhau . . .

– Tỷ lệ phá thai cao nhất thế giới mỗi năm khoảng 2 triệu thai nhi bị giết.

– Với mức tiêu thụ 2,7 tỷ lít bia trong năm, khoảng 24 lít trên/đầu người/năm, bằng 1/10 so với châu Âu, Việt Nam đã trở thành nước thứ ba có sản lượng tiêu thụ bia cao nhất châu Á, sau Nhật và Trung Quốc.

– Theo thống kê năm 2010 của Bộ Lao động- Thương binh- Xã hội cho thấy, tỷ lệ trẻ em chết đuối ở Việt Nam cao nhất khu vực Đông Nam Á. Cứ mỗi ngày lại có 10 trẻ em tử vong vì chết đuối, độ tuổi từ 7- 15. Điều đáng nói là những cái chết tức tưởi của trẻ em hầu hết đều xuất phát từ… người lớn.

Xem ra xã hội ngày hôm nay cũng đáng báo động. Báo động về một làn sóng hưởng thụ bất chấp tính mạng của mình và của người khác. Con người ngày nay đáng báo động như thời ông Noe đóng tàu, còn nhân loại thì vẫn say sưa, vẫn chè chén, vẫn truỵ lạc . . . Phải chăng đây cũng là thời kỳ mà Mẹ Maria đang mời gọi con cái mình không chỉ sám hối mà còn gia tăng cầu nguyện cho các tội nhân.

Trong cuốn Bí Mật Kinh Mân Côi, Thánh Luy Maria Mongpho thuật lại sự tích Kinh Mân Côi như sau:

“Vào cuối thế kỷ 12, bè rối Albigensê đang lan tràn và đời sống các tín hữu bị sa sút trầm trọng. Một lần Cha Thánh Đaminh đến một khu rừng gần thành phố Toulouse để ăn chay, đánh tội, than khóc và cầu nguyện liên lỉ trong ba ngày để xin Chúa cho các tội nhân ơn sám hối và cho những người theo bè rối Albigensê trở lại với đức tin chân thật. Thánh nhân đã bị ngất đi vì kiệt sức. Lúc ấy Đức Mẹ cùng với ba thiên thần đã hiện ra với ngài và nói:

-Đaminh yêu dấu, con có biết Chúa Ba Ngôi Chí Thánh muốn dùng khí giới nào để canh tân thế giới không?

Thánh Đaminh đáp:

-Thưa Mẹ, Mẹ biết rõ hơn con, vì liền sau Chúa Giêsu Con Mẹ, Mẹ luôn là khí cụ chính yếu cho phần rỗi chúng con.

Đức Mẹ bấy giờ dạy Thánh Đaminh:

-Mẹ muốn cho con biết rằng trong cuộc chiến này, khí giới phải dùng đến là Ca Vịnh Thiên Thần, viên đá nền tảng của Tân Ước. Vì vậy, nếu con muốn thuyết giảng cho các linh hồn cứng lòng để đem họ về với Chúa, con hãy rao giảng Ca Vịnh này của Mẹ.

Thánh nhân vui mừng chỗi dậy lòng đầy nhiệt thành muốn hoán cải dân chúng vùng ấy. Ngài liền đi thẳng đến Vương Cung Thánh Đường. Ngay lúc ấy, các thiên thần vô hình đã đổ chuông nhà thờ mời gọi dân chúng đến để nghe thánh nhân giảng.

Khi thánh nhân vừa lên tiếng giảng dạy, một cơn bão lớn xảy ra, đất chuyển rung, trời tối lại, sấm chớp nổ ầm ầm làm kinh thiên động địa. Dân chúng thấy bức ảnh Đức Mẹ treo ở một nơi tôn nghiêm giơ tay lên trời ba lần như kêu mời Chúa báo oán nếu họ không biết hối cải và tìm đến nương tựa nơi Mẹ Thiên Chúa. Thánh Mongpho cho rằng Chúa đã cho những hiện tượng này xảy ra khi Thánh Đaminh bắt đầu rao giảng về Kinh Mân Côi tương tự như khi Chúa ban Thập Điều cho Môisen năm xưa, để chứng thực tính cách quan trọng của Kinh Mân Côi trong chương trình cứu độ nhân loại”.

Dân chúng thành Toulouse đã yêu chuộng Kinh Mân Côi và từ bỏ bè rối để trở về với đức tin chân thật. Từ ấy, việc sùng kính Phép Lần Hạt Mân Côi được gắn liền với sự thánh thiện của người tín hữu. Vậy nên, mỗi khi thấy một tín hữu bắt đầu sống sa đọa, người ta có thể kết luận một cách chắc chắn rằng: một là người ấy đã bỏ đọc Kinh Mân Côi; hai là người ấy chỉ đọc Kinh Mân Côi cách cẩu thả.

Trong tháng Mân côi, giáo hội mời gọi chúng ta hãy siêng năng cầm lấy Tràng chuỗi Mân Côi là khí giới, là thuẫn đỡ trong đời sống. Khi đọc kinh Mân côi chúng ta cậy nhờ lời bầu cử của Mẹ, xin Chúa ban cho những kẻ tội lỗi được ơn trở lại, xin cho chúng ta ơn can đảm để chống lại những cám dỗ của ma quỉ, và theo gương Mẹ sống gắn bó và tuân hành thánh ý Chúa.

Vì thế trong tháng Mân Côi và Tháng Các linh hồn, xin mỗi gia đình hãy dâng chuỗi Mân Côi hằng ngày của gia đình mình cầu nguyện cho một gia đình đang bất hòa, đang rối đạo hay nguội lạnh được ơn trở về. Xin mỗi một cá nhân hãy chọn lấy một người bạn để cầu nguyện cho họ sớm ăn năn sám hối và tin phục Thiên Chúa. Ước gì mỗi người trong giáo xứ chúng ta biết dâng những hy sinh, những lời kinh Mân côi để đền bù lại những tội lỗi của con người hôm nay. Amen. [Mục Lục]

10. Kinh Mân Côi, Những Viên Ngọc Quí- Trích Logos năm C

Năm 1997 có 2 sự kiện nổi bật liên quan đến 2 người phụ nữ nổi tiếng thế giới. Ngày 05/9/1997, Mẹ Têrêxa Calcutta qua đời đã làm cho cả thế giới xúc động. Và trước đó một tuần, ngày 31/8/97, công nương Diana xinh đẹp, vợ thái tử Charles của Vương Quốc Anh đã từ trần trong một tai nạn xe hơi thảm khốc tại nước Pháp. Nhưng điều đáng chú ý nhất là trong lễ tang của công nương Diana, người ta nhìn thấy trên tay thi hài của Diana cầm một cỗ tràng hạt mân côi, dù Diana là một tín đồ Anh giáo. Chuỗi hạt mân côi đó chính là món quà Mẹ Têrêxa tặng cho Diana trong một lần 2 người gặp gỡ nhau. Thật lạ lùng, bên cạnh những đồ trang sức đắt tiền, những viên ngọc quí giá trên thi hài của Diana, chuỗi hạt mân côi trong lòng bàn tay của cô như những viên ngọc sáng ngời niềm tin và tình yêu bất diệt.

Theo nghĩa tiếng Hán, “Mân” có nghĩa là một loại đá giống như ngọc và “Côi” có nghĩa là một loại ngọc quí (Hán Việt Từ Điển, tác giả Đào Duy Anh, 1957). Như thế, mân côi có nghĩa là ngọc quí. Chuỗi hạt mân côi là kết tinh của những mầu nhiệm trong cuộc đời Đức Mẹ và Chúa Giêsu. Kinh mân côi là con đường thiêng liêng dẫn đưa người tín hữu đến gặp gỡ Chúa Kitô trong vinh quang Nước Trời (Đức giáo hoàng Gioan Phaolô II). Kinh mân côi còn là “dây chuyền hy vọng” (Cha Benedict Groeschel, Dòng Phanxicô).

Kinh mân côi, những viên ngọc quí.

Nếu sàng lọc cuộc đời Đức Mẹ trong niềm tin, người ta có thể tìm được rất nhiều những hạt ngọc quí. Mỗi biến cố xảy đến trong cuộc đời, Đức Mẹ đã chôn chặt trong đáy con tim và suy gẫm trong lòng. Vì thế, mỗi biến cố dù là vui, mừng hay thương đau đều được Mẹ ấp ủ với những nỗi niềm trăn trở, thao thức trong niềm tin và sự phó thác. Cũng như hạt cát trong mình con trai biển qua bao tháng ngày đã trở thành viên ngọc trai quí giá, cũng vậy, những biến cố trong cuộc đời Mẹ cũng được Mẹ trân trọng và nghiền ngẫm để trở thành những điều quí giá nhất cho mình.

Với mầu nhiệm 5 sự VUI, chúng ta sống lại với Đức Mẹ cuộc đời thơ ấu của Chúa Giêsu. Với mầu nhiệm 5 sự THƯƠNG, chúng ta cùng với Đức Mẹ đi vào cuộc hành trình tử nạn của Chúa Giêsu. Với mầu nhiệm 5 sự MỪNG, chúng ta chiêm ngưỡng cuộc phục sinh vinh hiển của Chúa và phần thưởng Chúa dành cho Mẹ. Vì thế, kinh mân côi chính là kho tàng vô giá chứa đựng những viên ngọc quí Tin Mừng. Kinh mân côi như những hạt ngọc kết tinh từ những giọt lệ nhỏ ra từ cuộc đời đau khổ của Mẹ và cũng là kết tinh từ những giọt máu hồng tử nạn của Chúa Giêsu. Đó chính là những viên ngọc sáng ngời gắn lên triều thiên vinh quang của Đức Mẹ.

Kinh mân côi, con đường thiêng liêng dẫn đến Đức Kitô.

Tràng hạt mân côi là con đường dễ đi dành cho mọi người để đến với Đức Kitô. Nhìn vào tràng hạt mân côi, chúng ta thấy một vòng tròn mầu nhiệm : khởi đi từ cây thánh giá, lần bước qua các biến cố kỳ diệu, sau đó trở về với cây thánh giá. Như thế, kinh mân côi dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình đức tin. Cuộc hành trình đó có khởi điểm từ Đức Kitô và trở về với Đức Kitô. Cũng vậy, khi chúng ta lần chuỗi mân côi, chúng ta được Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta đi vào con đường huyền nhiệm để gặp gỡ Chúa Kitô và sống với Ngài. Vì thế, kinh mân côi là lối đi nhỏ bé đơn sơ trong cuộc sống dẫn đến con đường lớn của ơn cứu độ.

Kinh Mân côi, sợi dây chuyền hy vọng.

Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta với những gian nan và thử thách, đau khổ và thất vọng, kinh mân côi gieo vào lòng ta những hạt giống của niềm hy vọng. Từng hạt kinh là từng hạt giống Lời Chúa ươm trồng vào mảnh đất đời sống, để rồi sinh hoa kết trái ân sủng thiêng liêng.

Điều quan trọng hơn nữa, kinh mân côi còn là “sợi dây êm ái nối kết chúng ta với Thiên Chúa” (Chân phước Bartolo Longo). Khi chúng ta đọc kinh mân côi, chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa qua Mẹ Maria. Nhờ kết hợp với Chúa, chúng ta được liên kết với anh em mình. Kinh mân côi chính là sợi dây liên đới tạo nên sự hiệp nhất trong gia đình, giáo xứ và Giáo Hội.

Giới thanh niên Nhật Bản ngày nay đang có phong trào đeo tràng hạt trên cổ để trang sức. Mốt trang sức này hoàn toàn không liên hệ gì đến tôn giáo mà chỉ vì các tài tử Nhật Bản đeo tràng hạt chụp hình quảng cáo nên thanh niên Nhật bắt chước làm theo. Hiện nay, tại các cửa hàng ở Nhật, tràng hạt trang sức được nhiều người ưa chuộng và người mua thường là thanh thiếu niên dưới 20 tuổi. Nhiều cô gái cũng mua tràng hạt nhưng để tặng các bạn trai của mình.

Tràng hạt mân côi không phải là vật trang sức, nhưng đó chính là phương thế hữu hiệu để giúp chúng ta cầu nguyện với Chúa qua Mẹ Maria. Những hạt kinh mân côi hòa quyện với cuộc sống đời thường làm vơi đi những nhọc nhằn lo lắng của chúng ta. Những hạt kinh mân côi trộn lẫn với những giọt mồ hôi, nước mắt và cả những giọt máu trong những lao nhọc vất vả hàng ngày sẽ làm nên những hạt ngọc quí giá trong đời sống đức tin hôm nay. [Mục Lục]

11. Kinh Kính Mừng, Lời Kinh Cầu Cho Hòa Bình- Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Kinh Kính Mừng

“Kính mừng Maria đầy ơn phúc”,

Đó là câu đầu tiên trong Kinh Kính Mừng chúng ta vẫn thường xuyên đọc nhất là trong tháng Mười. Nhưng nguồn gốc của lời Kinh này phát xuất từ miệng sứ thần Gabriel khi chào kính Đức Maria lúc truyền tin (Lc1,28). Đức Maria là Đấng đầy ơn phúc như lời sứ thần nói, vì có Thiên Chúa ở cùng. Phúc của Mẹ thật cao với khôn sánh, lời bà Ê-li-sa-bet xác nhận: ” Em thật có phúc hơn mọi người nữ, vì Đấng em cưu mang thật diễm phúc”. Ai có Thiên Chúa ở cùng, người ấy được đầy ơn phúc. Đức Maria là người diễm phúc không chỉ Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, mà Mẹ còn cưu mang Thiên Chúa ngay trong lòng mình nữa.

Những lời của sứ thần Gabriel và của bà Ê-li-sa-bet trên đây đã được Giáo hội dùng để chúc tụng ngợi khen Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa và là Mẹ chúng ta. Đồng thời Giáo hội thêm vào đó lời cầu khẩn Mẹ thương nâng đỡ phù trì “Thánh Maria ĐứcMẹ Chúa Trời… và trong giờ lâm tử”.

Phụng vụ mừng lễ Mẹ Mân Côi hôm nay, dựa trên trang Tin Mừng (Lc 1,26-38) lại dìu ta về với “Đức Maria đầy ơn phúc”. Mẹ có phúc trước hết là vì Mẹ có Thiên Chúa ở cùng, và Con lòng Mẹ gồm phúc lạ. Thế nên Giáo hội không ngớt lời lặp đi lặp lại danh xưng hạnh phúc này: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc” để tôn vinh Mẹ Maria. Đức Maria là người hạnh phúc vì Mẹ đã đón nhận hồng phúc, được tuyển chọn để cưu mang, sinh hạ, nuôi dưỡng và làm Mẹ Đấng Cứu Thế, là Mẹ Thiên Chúa. Nếu yêu và được yêu là những điều hạnh phúc nhất trong đời, thì Đức Maria cũng rất hạnh phúc khi được Thiên Chúa yêu thương tuyển chọn và chính Mẹ cũng biết dành trọn vẹn tình yêu thương của mình cho Thiên Chúa.

Mẹ được đầy ơn phúc, Mẹ cũng muốn cho con cái mình hạnh phúc “Mẹ nào mẹ chẳng thương con”. Nên khi con cái lầm đường lạc lối, sa lầy trong tội, Mẹ đã mở rộng vòng tay, dẫn lối chỉ đường cho con người đạt tới hạnh phúc với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn đền tội, hãy năng lần hạt Mân Côi”. Làm theo lời dặn dò của Mẹ, Hội Thánh đã thoát nhiều cơn giông tố hiểm nguy xác hồn, phá tan được bao bè rối, mang lại bình an trong tâm hồn.

Ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng

Chính Mẹ đã dạy chân-phước Alanô: “Bất-cứ ai trung thành đọc Kinh Mân Côi và suy ngắm những Mầu Nhiệm sẽ được ân thưởng. Mẹ sẽ xin cho họ được tha mọi hình phạt và mọi tội lỗi trong giờ họ chết”.

Thánh Bênađô nói: “Kinh Kính Mừng làm cho Quỉ Dữ trốn chạy, Hỏa Ngục run sợ”.

Còn Thánh Bônaventura nói: “Mẹ Maria chúc phúc cho những ai đọc Kinh Kính Mừng”.

Thánh Montfort “Những người rối đạo, những người vô tín ngưỡng, những người kiêu căng chê ghét hay khinh thị Kinh Kính Mừng, là những người có dấu bị trầm luân Hỏa-Ngục. Không có gì có hiệu-lực được lên Nước Thiên Chúa bằng đọc Kinh Mân Côi”.

Thánh Anphongsô “Nhờ Kinh Mân Côi, biết bao tội nhân bỏ đường tội lỗi, bao linh hồn đã tiến cao trên đường trọn lành. Biết bao người được ơn chết lành và hưởng phúc Thiên đàng”.

Kinh Mân côi là kinh chính Đức Trinh Nữ đã khuyến khích khi hiện ra với Cô Bernardette ở Lộ đức (1858) cũng như trong các lần hiện ra với ba em mục đồng Lucia, Phanxicô và Giaxinta 6 lần từ 13 tháng 5 tới 13 tháng 10 năm 1917. Cả 6 lần Đức-Mẹ đều thúc-dục: “Các con hãy tiếp-tục đọc Kinh-Mân-Côi hằng-ngày”. Và nhất là: “Các con hãy đọc kinh Mân côi để cầu nguyện cho hòa bình”.

Lời kinh cầu cho hòa bình

Chúng ta đang sống trong một tình hình quốc tế đầy những căng thẳng, càng ngày càng gia tăng, khiến ngày mùng 07 tháng 9 vừa qua, Đức Thánh Cha Phanxicô phải mời gọi cả Hội Thánh ăn chay cầu nguyện cho hòa bình tại Syria và những nơi bạo lực đang hoành hành. Lời cầu của Hội Thánh đã được nhận lời, chiến tranh đe dọa Damacus đang qua đi, nhưng tại Trung Đông, Ai Cập, Triều Tiên và cả Thánh Địa xem ra Hòa Binh vẫn vắng bóng. Chẳng nói đâu xa, tại Thánh phố Vinh tình hình đang nguy cấp giữa Địa phận Vinh với chính quyền. Trong tình hình hiện nay, chỉ biết chạy đến với Thiên Chúa, để khẩn xin hòa bình cho thế giới và cho quê hương Việt Nam. Việc làm trong tháng này là hãy lần hát Mân Côi, như Giáo hội vẫn thường làm trong các cơn túng cực. Vì chỉ có lời cầu nguyện mới vượt qua được các biên giới các quốc gia và các ngăn cách của thù ghét cũng như không hiểu nhau, mới đem lại bình an cho nhân loại. Trong lúc này chúng ta cảm thấy cần phải hướng về Đức Maria, Nữ vương hòa bình… phải khẳng định rằng, nơi nào thiếu hòa bình, nơi nào con người tỏ ra bất lực hay không muốn dẹp đi mầm mống thù ghét và chết chóc, thì việc trợ giúp phải đến từ Trời. Chính Đức Maria, Nữ vương hòa bình, Đấng đem chúng ta trở lại với Chúa Cha.

Trước những thế lực mạnh hơn, chúng ta thương cảm thấy bất lực. Khi nghĩ đến sức mạnh của những người thế lực trên Trái đất này định đoạt số phận của nhân loại, chúng ta cảm thấy bị giới hạn và bất lực. Chúng ta chỉ biết tin tưởng vào lời cầu nguyện mà thôi. Chúng ta chỉ biết tin cậy vào một sức mạnh lớn hơn, vào Chúa. Đức Maria, như gương mẫu của Người Phụ nữ phó thác hoàn toàn cho thánh ý Chúa. Và với tình mẫu tử, Mẹ sẽ dẫn đưa chúng ta đến với Chúa Kitô, theo dõi chúng ta trên đường đến với Chúa Cha, Đấng có thể cải hóa và làm cho các tâm hồn con người tùng phục thánh ý của Người.

Vậy kinh Mân Côi càng có lý do hơn nữa để xúc tiến hòa bình, một hoà bình cho tới nay vẫn chưa trở lại. Với lời Mẹ Maria dạy và kinh nghiệm của các thánh về ơn phúc bởi đọc Kinh Kính Mừng, chúng ta hãy sốt sáng đọc kinh Mân Côi, để cầu nguyện cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội, cho quê hương và cho toàn thế giới.

Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân Côi, cầu cho chúng con. Nữ Vương bình an, cầu cho chúng con. Amen. [Mục Lục]

12. Lời Kinh Đem Lại Hòa Bình- Lm Phêrô Trần Thanh Sơn

Trong tông thư Kinh Mân Côi, Đức thánh Giáo hoàng Gioan – Phaolô 2 đã nói về Kinh Mân Côi như sau: “Trước tiên, nhu cầu nài xin Thiên Chúa ban cho ơn bình an. Kinh mân côi đã được các vị tiền nhiệm của tôi và chính tôi nhiều lần đề nghị như một lời kinh cầu cho hoà bình… khám phá lại Kinh mân côi có nghĩa là chìm sâu vào việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Đức Ki-tô Đấng là bình an của chúng ta, bởi vì Người đã liên kết đôi bên thành một, và phá đổ bức tường ngăn cách là sự thù ghét (Ep 2,14)” (Tông thư Kinh Mân Côi, số 6). “Đức Kitô Đấng là bình an của chúng ta”, vì Ngài đã phá đổ bức tường ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa bằng chính cái chết của Ngài, hay đúng hơn bằng chính sự vâng phục của Ngài. Chính nhờ sự vâng phục của Đức Kitô, chúng ta có sự bình an.

Lời Chúa trong ngày lễ hôm nay, một lần nữa cho thấy con người chỉ có sự bình an thật sự khi sống trọn vẹn theo thánh ý của Thiên Chúa.

Sự vâng phục đem lại bình an

Trong bài đọc một thuật lại câu chuyện xảy ra vào thời vua David. Sau khi đã ổn định, thống nhất đất nước, vua David liền chuẩn bị xây dựng một Đền thờ để tôn vinh Thiên Chúa. Đây là một việc làm tốt đẹp, nhưng nhà vua vẫn không tự ý làm một mình. Nhà vua đã hỏi ý kiến của ngôn sứ Nathan. Theo cái nhìn tự nhiên, vị ngôn sứ cũng đồng ý với nhà vua “Điều gì vua nghĩ trong lòng, vua hãy thực hiện”. Nhưng đêm ấy, Thiên Chúa đã cho vị ngôn sứ biết, không phải vua David sẽ xây nhà cho Thiên Chúa, nhưng chính Thiên Chúa sẽ xây tạo lập cho nhà vua một dòng dõi trường tồn. Hôm sau, vị ngôn sứ báo lại cho nhà vua, và nhà vua đã vâng nghe theo lời vị ngôn sứ, nên không xây Đền thờ nữa.

Đó là một bài học cho chúng ta về sự vâng phục. Để có thể sống vâng phục, vua David đã phải bỏ ý riêng của mình. Cho dù đó là một ước muốn xem ra tốt đẹp và thánh thiện. Nhà vua muốn xây Đền thờ cho Thiên Chúa. Thế nhưng, Chúa không muốn, thì nhà vua đã không làm. Và thế là vua David xứng đáng trở nên tổ phụ của Đấng Cứu Thế. Sau này khi nói về Đấng Messia, người ta vẫn gọi Ngài là “Con vua David”. Cuối cùng vua David đã ra đi trong bình an, dù nhà vua không thực hiện được ý định tốt đẹp của mình là xây Đền thờ cho Thiên Chúa.

Trong bài Tin mừng, chúng ta còn thấy một sự vâng phục đẹp hơn nơi Mẹ Maria. Ngay sau lời giải thích của sứ thần, mặc dù Mẹ chưa hiểu hết sứ mạng của mình, cũng như không hiểu chương trình của Thiên Chúa, Mẹ cũng chẳng biết tương lai của mình ra sao, nhưng với một tâm tình tin tưởng, phó thác và yêu mến Mẹ đã mau mắn thưa với sứ thần một lời thật đẹp: “Nầy tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời sứ thần truyền”. Mẹ đã “vâng như lời sứ thần truyền”, chứ không vâng theo sự tính toán của Mẹ. Mẹ vâng theo lời sứ thần, vâng theo chương trình của Thiên Chúa, cho dù sau đó cuộc hành trình đức tin của Mẹ đi vào đêm tối thì Mẹ vẫn cứ “Xin vâng”. Mẹ Maria đã luôn sống lời thưa xin vâng này trong suốt cuộc đời của Mẹ, nên cho dù có bước đi trong bóng tối của đức tin, thì tâm hồn Mẹ vẫn luôn có sự bình an. Mẹ luôn bình an vì Mẹ tin rằng: Chúa luôn ở cùng Mẹ như lời bà Elisabeth chào mừng Mẹ, mà chúng ta vẫn lập lại trong kinh Kính mừng: “Kính mừng Maria đầy ơn phúc, Đức Chúa Trời ở cùng bà

Bài học về sự vâng phục đã trở nên mẫu mực hơn nữa nơi việc nhập thể của Con Thiên Chúa. Vì vâng phục, Ngôi Hai Thiên Chúa đã chấp nhận từ bỏ vinh quang của một vị Thiên Chúa để hạ mình vâng phục cho đến chết và chết trên thập giá (x. Pl 2, 6-8). Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục Chúa Cha, và nhờ đó Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu rỗi cho tất cả chúng ta (x. Dt 5, 8-9). Thánh Phaolô trong bài đọc hai nói rõ: “Vì như bởi tội không vâng lời của một người mà muôn người trở thành những tội nhân thế nào, thì do đức vâng lời của một người mà muôn người trở thành kẻ công chính cũng như thế”.

Như thế, chúng ta được ơn công chính hóa, được bình an, chính là nhờ sự vâng phục của Chúa Giêsu. Như thế, mỗi khi đọc Kinh Mân Côi, không phải là lúc chúng ta “đếm” xem mình đọc được bao nhiêu kinh, lần bao nhiêu tràng chuỗi, nhưng là lúc chúng ta “chìm sâu vào việc chiêm ngưỡng Đức Kitô, Đấng là bình an của chúng ta”, và cũng là lúc chúng ta chiêm ngắm cuộc sống “Xin vâng” của Mẹ Maria, để rồi với lời chuyển cầu của Mẹ, chúng ta cũng cố gắng sống vâng phục như Chúa Giêsu và Mẹ Maria, để cuộc đời mỗi người chúng ta cũng đạt đến sự bình an.

Kinh Mân Côi không chỉ là lời kinh đem lại bình an cho cá nhân, nhưng còn là lời kinh nuôi dưỡng sự bình an trong từng gia đình của chúng ta.

Lời kinh nuôi dưỡng sự bình an trong gia đình

Cũng trong Tông thư Kinh Mân Côi, đức thánh Giáo hoàng Gioan – Phaolô 2 còn nói: “Một nhu cầu dấn thân và cầu nguyện tương tự nảy sinh từ một vấn đề nguy kịch của thời hiện đại: gia đình, tế bào nguyên thủy của xã hội, càng ngày càng bị đe doạ bởi những sức mạnh hủy diệt, ở bình diện ý thức hệ lẫn thực hành, làm ta lo sợ cho tương lai của cơ chế nền tảng và không thể thiếu được này và, cùng với nó, cho tương lai của toàn thể xã hội. Làm sống lại Kinh mân côi trong các gia đình ki-tô hữu, trong bối cảnh của một thừa tác vụ mục vụ rộng lớn hơn cho gia đình, sẽ là một trợ giúp hữu hiệu chống lại những tác động hủy hoại của cơn khủng hoảng đặc trưng này của thời đại chúng ta” (Sđd, số 6).

Thật vậy, chúng ta hiện đang sống trong một xã hội, mà con người luôn quá đề cao cái tôi của mình, ngần ngại khi phải vâng phục. Điều đó dẫn đến bao nhiêu là hệ quả tai hại, đặc biệt là trong đời sống gia đình. Con cái không còn sự vâng phục đối với cha mẹ. Giống như người con thứ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” trong Tin mừng Luca, các bạn trẻ chỉ mong sao mau lớn, không phải để dấn thân phục vụ xã hội, để giúp đỡ cha mẹ, nhưng để được “thoát” ra khỏi mái gia đình, mà họ cứ tưởng là đang giam cầm họ. Giới trẻ, và cả nhiều người trong chúng ta cứ lầm tưởng vâng phục là nhu nhược, vì thế cứ luôn mang trong mình một tâm trạng phản kháng. Từ đó trong gia đình, cha mẹ và con cái ngày càng xa cách nhau. Gia đình, tế bào căn bản của xã hội và Giáo hội đang có nguy cơ bị tan vỡ.

Do đó, nếu cả gia đình cùng suy ngắm Kinh Mân Côi, cùng chiêm ngưỡng sự vâng phục tuyệt đối của Chúa Giêsu và Mẹ Maria, để thấy rằng vâng phục không phải là thái độ của một tâm hồn nhu nhược. Trái lại, chính lúc sống vâng phục theo thánh ý Thiên Chúa, vâng phục theo lẽ phải là lúc con người mạnh mẽ nhất, vì đã chiến thắng được chính bản thân mình. Và nếu từng thành viên trong gia đình đều sống theo thánh ý của Thiên Chúa, thì sẽ có sự hiệp nhất trong gia đình, vì Thiên Chúa là một. Gia đình nào có sự hiệp nhất, thì gia đình đó chắc chắn có sự bình an.

Tóm lại, đọc, suy niệm và sống Kinh Mân Côi là cơ hội để mỗi người chúng ta đạt được sự bình an chân chính. Một sự bình an không phải không dựa vào tiền tài, danh vọng, quyền thế, nhưng là sự bình an vì có Chúa ở cùng. Amen. [Mục Lục]