Thư gửi anh Giu-đa

143 lượt xem 6 Tháng Tư, 2020

THƯ GỬI ANH GIU-ĐA

Nhà nguyện, ngày   tháng   năm

     Anh Giu-đa thân mến!

  1. Dầu có vẻ thật bất lịch sự, nhưng tôi phải thú nhận với anh điều này là, rất nhiều người ghét anh và thậm chí ghét ngay những người đóng vai anh trong các bộ phim hay vở kịch. Và tôi cũng là một trong số nhiều người từng quở trách anh rằng: “Tại sao anh lại làm thế với Chúa? Sao anh lại làm chuyện đáng trách ấy với Thầy mình?” … Nhưng có lẽ tôi đã lầm khi ghét anh, tôi chẳng nên ghét anh cho bằng ghét những lầm lỗi, khuyết điểm nơi anh; và tôi chẳng nên ghét những lỗi lầm nơi anh cho bằng ghét những yếu đuối và tội lỗi nơi chính con người tôi.
  2. Thấm thoát anh cũng đã theo Chúa ngót ba năm. Tôi không biết Chúa đã gọi anh như thế nào, nhưng tôi chắc chắn rằng anh đã bỏ lại tất cả, gia đình, bạn bè, công việc,… để đi theo Chúa. Còn tôi, tôi hơn anh một chút, tôi chính thức theo Chúa gần 4 năm rồi. Người đã gọi tôi, tuy âm thầm nhưng vô cùng mãnh liệt, khiến tôi không thể không đáp trả được. Nhưng, anh và tôi, chúng ta cần phải xét lại xem đâu là động cơ thúc đẩy chúng ta đi theo Chúa? Chúng ta theo Chúa vì lý do gì và để làm gì? Anh biết rõ lòng anh hơn ai khác, và chính tôi cũng phải kiểm khảo lại chính mình trước mặt Chúa xem tôi đang tìm kiếm điều gì. Tìm tôi hay tìm Chúa? Để tiến thân hay hiến thân? Phụng sự Chúa hay phụng sự thế gian? Như thế, chúng ta phải xác định rõ con đường chúng ta đang đi và đích đến mà chúng ta đang hướng tới, kẻo phải lầm đường lạc lối mà ra khốn khổ.
  3. Giu-đa này, anh có còn nhớ cái ngày các anh cãi nhau ỏm tỏi, bàn tán xôn xao rằng ai là người lớn nhất trong Nước Trời không? Thầy Giê-su đã gọi một em nhỏ đến, đặt giữa các anh và bảo: “Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ thì chẳng vào được Nước Trời.” (x.Mt 18,1-3) Tôi đoán là các anh chẳng hiểu Chúa muốn nói điều gì. Tôi cũng không biết tại sao Người lại nói một cách quả quyết như thế, tại sao phải nên như trẻ nhỏ thì mới vào được Nước Trời. Nhưng càng đi theo Chúa, càng đi sâu vào đời sống tịnh hiệp với Người, tôi mới thực sự say mê chìa khóa Nước Trời này. Tôi cứ yêu Chúa, yêu như trẻ thơ hoàn toàn phó thác cho cha mẹ, vâng phục thánh ý của Người trong mọi sự. Những gì Chúa ban cho con cái của Người, dầu là an ủi hay khổ đau, không vì điều gì khác ngoài mong muốn chúng ta được hạnh phúc, mà hạnh phúc thật là chính Chúa. Vâng phục, khó nghèo và khiết tịnh, ba điều ấy được gói gọn trong hai tiếng “trẻ thơ” đó anh ạ.
  4. Còn có chuyện này, tôi phải nói với anh thì mới thỏa lòng được. tôi đoán là anh không bao giờ quên được ngày cùng Thầy Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Người ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, dân chúng reo hò vang dậy, trên tay cầm cành lá tung hô: “Hoan hô Con Vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Hoan hô trên các tầng trời!” (x.Mt 21,6-9). Lúc ấy chắc các anh nở mày nở mặt lắm và đang mơ một giấc mơ về vương quốc của Thầy Giê-su, nên có lẽ các anh không để ý đến tâm trạng của chú lừa con hôm ấy. Nó đang hãnh diện lắm, vì thấy người ta đang trải đường cho nó đi, lại còn cầm hoa lá tung hô nó. Đến ngày hôm sau, nó cũng bước đi oai vệ như hôm trước, nhưng người ta chẳng những không trải đường cho nó đi mà còn xua đuổi nó như tránh kẻ phong hủi. Nó đâu có biết rằng, vì Đấng đang ngồi trên lưng nó mà nó mới được người ta chào đón như vậy. có khi nào anh và tôi cũng đã có não trạng như chú lừa con ấy không? Trong mấy năm ở với Thầy Giê-su, có lẽ anh cũng cảm thấy oai vệ và hãnh diện về Thầy, hãnh diện về anh khi thấy người ta tuôn đến với Thầy lũ lượt. Anh càng hãnh diện biết mấy khi Thầy trao cho các anh quyền trừ quỷ và chữa lành các bệnh tật. Anh thấy mình oai vệ biết chừng nào khi mọi người cung kính chào anh, mời anh đi chỗ này chỗ nọ. Anh đâu có biết vì Danh Thầy, vì Thầy ở với anh nên anh mới được người ta trọng vọng như vậy. Nhưng, anh không thấy Thầy mình đi tìm sự trọng vọng nơi người đời, nên có khi anh cảm thấy thật hụt hẫng. còn tôi, từ khi người ta biết tôi theo Chúa, tôi có vẻ được đối xử đặc biệt hơn  so với những người bình thường. Người này mời, người kia kính, đôi khi biến tôi thành những ông to, bà lớn, thánh này, thánh nọ. Tôi có hãnh diện về điều đó không? Là con người, cũng như anh, tôi hãnh diện vì điều đó. Nhưng nếu tôi chỉ tìm kiếm chút danh dự hão huyền đó thì sớm muộn gì tôi cũng phải hụt hẫng như chú lừa con kia, vì tất cả những thứ ấy chỉ là thứ phù vân chóng qua mà thôi. Vả lại, chính chút danh dự hão huyền ấy lại là cạm bẫy ngọt ngào dẫn ta tới “chỗ diệt vong” lúc nào mà ta chẳng hay biết. Nhưng điều này, có lẽ quan trọng hơn nhiều, là tất cả những vinh dự, những ngợi khen tán thưởng mà ta nhận được từ người khác không phải dành cho ta, mà là dành cho Chúa, vì chính Người là tác giả của những ân ban ta lãnh nhận được, dầu là vật chất hay tinh thần, tự nhiên hay siêu nhiên, trực tiếp hay gián tiếp; Người đã chẳng nói với anh rằng: “không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (x.Ga 15,5).
  5. Giu-đa này, có một điều tôi rất muốn hỏi anh: “Anh có cảm thấy hạnh phúc khi đi theo và ở với Thầy Giê-su không?” Tôi đoán là có, vì tôi thấy tình thương của Thầy dành cho các anh trong từng lời dạy dỗ bảo ban, trong từng cử chỉ yêu thương. Nhưng nhiều khi anh cảm thấy thật trống trải, anh cảm thấy chưa thỏa mãn so với những gì anh mong đợi. Có lẽ, vì lòng anh chưa làm một với lòng Thầy, trái tim anh chưa đủ mở rộng để đón nhận tình yêu của Thầy, hay anh đang toan tính điều gì khác. Điều đó chỉ có anh mới biết được, và Thầy Chí Thánh của anh còn biết rõ anh hơn cả chính anh đấy, vì Người nhìn thấu tất cả. Tôi buồn lắm khi thấy anh cư xử không “đẹp” trong Bữa Tiệc ly. Bữa Tiệc Ly cuối cùng mà Thầy Chí Thánh ở cùng với các anh, anh biết không, lòng Thầy đã xao xuyến, khắc khoải không cùng khi nghĩ về các anh và những gì Người sắp phải trải qua. Thầy không ngần ngại bày tỏ với các anh bao nỗi niềm Thầy giấu kín trong lòng bấy lâu, giờ mới có dịp tỏ lộ. Từ nơi Trái Tim của Thầy tuôn trào một dòng thác lũ của tình yêu, còn lòng anh đang đi xa ở một phương trời nào đó với những lo lắng, toan tính. Thầy cúi xuống rửa chân cho anh mà lòng đau như cắt, Thầy biết rõ lòng anh đang nghĩ điều gì. Anh ngồi cạnh Thầy, chấm chung một chén với Thầy mà lòng anh không gần Thầy chút nào, lòng anh cũng chẳng làm một với lòng Thầy. Thay vì để cho mình được nhấn chìm trong trận lụt tình yêu của Thầy Chí Thánh, anh lại để cho mình hoàn toàn khô ráo, dầu anh đang ở giữa biển tình yêu. Tôi không thể trách anh được vì nhiều khi tôi cũng thế. Mấy mươi năm qua, Chúa đã ban cho tôi biết bao ân ban, những ân ban cao trọng là đàng khác, còn tình thương của Người thì tôi chẳng thể sánh ví với điều gì. Thế mà, có khi tôi cũng chẳng nhận ra tình thương của Người, tôi chăm chăm nhìn vào quà tặng mà quên mất tình yêu của người tặng quà; tôi chăm chăm nhìn vào vẻ đẹp và những vết dơ trên mặt tôi mà quên mất rằng nhờ tấm gương kia soi bóng tôi mới có thể thấu hiểu chính mình. Tôi chưa thể yêu Chúa một cách vô vị lợi, yêu như trẻ thơ mà vẫn cứ đòi hỏi Chúa thỏa mãn những “yêu sách” của mình. Chúng ta thật yếu đuối, mà sao Người vẫn cứ yêu ta, yêu cho đến cùng, yêu đến điên cuồng. Anh à, tôi phải thú nhận rằng, hạnh phúc của ta là được ở kề bên Chúa, trần gian này chẳng có chi bất diệt, chỉ có Chúa mới là hạnh phúc thật, chỉ nơi Người mới có nguồn bình an bất tận, thiếu Người đời ta coi như đồ bỏ, chỉ có Người là quá đủ cho ta rồi.
  6. Anh mến, người ta gọi anh là kẻ phản bội, kẻ bán Chúa. Rõ ràng là anh đã bán Chúa. Tôi không biết tại sao anh lại làm điều đó với Thầy mình, nhưng tôi chắc chắn rằng anh có đủ lý lẽ, lý do để thực điều mà anh cho là hợp lý theo cái nhìn của anh. Tôi không dám kết án anh vì anh đã bán Thầy với giá 30 đồng bạc và nộp Thầy bằng nụ hôn giả dối, bởi vì tôi đã bán Chúa còn nhiều lần hơn cả anh, với giá còn rẻ mạt hơn nhiều. Tôi đã bán Chúa bao lần chỉ để đổi lấy một chút danh dự chóng qua, đổi lấy một giờ tán gẫu vô ích, đổi lấy một thú vui trần thế,… Cứ thế, tôi chẳng biết mình đã bán Chúa bao nhiêu lần vì con người yếu đuối mọn hèn của tôi. Xét cho cùng, tôi chắc chắn lầm lỗi hơn anh nhiều, nhưng tôi không đồng ý việc anh đau khổ tìm đến cái chết. Đó là điều khiến người ta và ngay cả chính tôi đã từng cay đắng về anh. Tôi hiểu anh đã đau đớn như thế nào khi biết Thầy phải chịu khổ và phải chết vì anh, vì tôi cũng đã đau đớn đến xé lòng khi nhận ra tôi ngu muội, tôi xúc phạm đến Chúa, Đấng hằng yêu thương tôi. Nhưng tôi phải làm khác anh, nghĩa là không thất vọng, ghì trói mình dẫy giụa trong vũng lầy nhơ nhớp tội lỗi của riêng mình; mà hướng nhìn lên sự thiện hảo của Thiên Chúa, vì tôi biết lòng thương xót của Người không có giới hạn. Anh biết không, chỉ cần ta không quên Người thì Người sẽ làm tội của ta tan ra như khói, lỗi của ta biến mất tựa áng mây (x.Is 44,21-22); chỉ cần ta đến với Người thì tội của ta dầu có đỏ như son cũng nên trắng như tuyết, có thắm tựa vải điều cũng nên trắng như bông (x.Is 1, 18). Chúa vẫn đợi ta trở về như người cha mòn mỏi trông ngóng đứa con hoang đàng, và một khi ta trở về với Người, Người chẳng những không trách phạt ta mà còn ôm ta vào lòng, âu yếm vuốt ve (x.Lc 15, 11-32).

Càng chiêm ngắm sự thiện hảo của Chúa tôi lại càng thấy rõ sự yếu hèn của mình vì ánh sáng từ Ánh Dương huy hoàng ấy soi rọi vào tôi khiến tôi nhìn rõ mồn một con người đáng trách, đáng phạt của tôi. Càng chiêm ngắm Đấng Tuyệt Đối, tôi càng ao ước tiến tới gần Người để được ở trong Người, và chính Người ở trong tôi; vì thế tôi đã chạy không biết mệt mỏi để lao thẳng tới đích bất chấp bao vật cản, giằng co trên đường.

  1. Anh Giu-đa mến, tôi chẳng biết bây giờ anh đang ở đâu, điều đó tùy thuộc vào anh và lòng nhân từ của Chúa. Chúa vẫn hằng tuôn đổ ân sủng của Người trên chúng ta không ngưng nghỉ, điều quan trọng là chúng ta có trung thành với Người hay không, có biết mở rộng bàn tay và con tim để đón nhận ân sủng của Chúa hay để nó qua đi một cách vô ích.

Xin thứ lỗi cho tôi vì tôi đã nói hơi nhiều, cầu chúc anh tất cả trong tình yêu  của Thiên Chúa, Đấng giàu lòng xót thương.

Người con bé nhỏ